Sáng kiến kinh nghiệm Phát huy tính tích cực của học sinh khi dạy môn Lịch sử Lớp 5

Đông Khê là cụm cứ điểm quan trọng nằm trên đường số 4 ở giữa Cao Bằng và Thất Khê và cũng là một mắt xích nối hai khu vực này. Đánh Đông Khê trước tiên mà không đánh vào các nơi khác là chủ trương sáng suốt, tài tình của ta vì: Trên phòng tuyến này Cao Bằng. Thất Khê lực lượng của địch rất mạnh, nếu đánh vào đây quân ta sẽ bị tổn thất nhiều. Do đó ta đánh vào Đông Khê là một mắt xích yếu của địch thì Cao Bằng sẽ bị cô lập, Thất Khê sẽ bị uy hiếp từ đó để tiêu hao nhiều sinh lực địch. Chính vì vậy, ở Đông Khê địch không giám phản kích chỉ cố thủ, máy bay địch yểm trợ bắn phá suốt ngày đêm.Quân ta chiến đấu dũng cảm, cuộc chiến đấu diễn ra gay go trong từng lô cốt của địch. Chính vì Đông Khê quan trọng như vậy nên Bác Hồ đã chỉ đạo trực tiếp trận đánh ở đài quan sát trên đồi cao. Nhiều tấm gương chiến đấu dũng cảm của quân và dân ta đã xuất hiện.
PHÒNG GIÁO DỤC ĐÀO TẠO ĐỐNG ĐA  
TRƯỜNG TIỂU HỌC VĂN CHƯƠNG  
Sáng kiến kinh nghiệm  
PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH KHI DẠY  
MÔN LỊCH SỬ LỚP 5.  
Giáo viên: Hoàng Thị Kim Liên  
Giáo viên trường tiểu học Văn Chương  
NĂM HỌC 2000  
A. Phần mở đầu.  
I. Lý do chọn đtài:  
Môn tự nhiên xã hội cung cấp cho học sinh những hiểu biết cơ bản và ban đầu về các  
sự vật, sự kiện, hiện tượng mối quan hệ giữa chúng trong tự nhiên, con người và xã hội, về  
cách vận dụng kiến thức đó trong đơìư sống sản xuất.  
Cùng với môn Tiếng Việt và Toán học, môn tự nhiên xã hội là 3 môn quan rọng nhất  
trong chương trình tiểu học.  
Trong giai đoạn này, việc phát huy tính tích cực của học sinh trong việc học tập môn  
tự nhiên , xã hội nói chung và phân môn lịch sử ở lớp 4 – 5 nói riêng là mọt phần trong việc đổi  
nới phương pháp dạy học của bộ môn này. Góp phần giáo dục toàn diện cho học sinh tiểu học.  
Bởi vì qua thực tế 7 năm đã dạy học sinh lớp 5, tôi nhận thấy:  
Học sinh chưa thực sự chủ động tính tích cực trong giờ học lịch sử (chủ yếu là nghe,  
ghi, đọc sách giáo khoa). Đồng thơì do yêu cầu phát triển khoa học kỹ thuật ngày càng nhanh,  
diễn ra từng ngày, từng giờ đòi hỏi cin người phải chủ động, tích cực, sang tạo đthích ứng  
được sự phát triển của hội. vậy, đất nước đã đặt ra mục tiêu cho nghành giáo dục Đào tạo  
ra những con người kiến thức văn hóa, khoa học, kỹ năng nghề nghiệp, lao động tự chủ,  
sáng tạo, kỷ luật, giàu lòng nhân ái, yêu nước, yêu CNXH, sống lành mạnh, đáp ứng được  
nhu cầu phát triển đất nước nhữn năm 90 và chuẩn bị cho tương lai”.  
Cũng trong quá trình giảng dạy, tôi nhận thấy học sinh có tiềm năng được tiếp xúc với  
nhiều lượng thông tin (từ bố, mẹ, anh chị - nhứng ngưòi có trình đvăn hoá, làm khoa học). Vì  
vậy, trong lớp xuất hiện nhiều em có tiềm năng tích cực, chủ động, cần khơi dậy giúp các em  
phát triển đđáp ứng mục tiêu và yêu cầu của đất nước.  
Mặt khác, chương trình lịch sử lớp 5 giúp học sinh lĩnh hội được một số tri thức ban  
đầu thiết thực về hội. Đó là các sự kiện và nhân vật tiêu biểu trong lịch sử dựng nước và  
giữ nước của dân tộc. Từ đó hình thành và phát triển ở học sinh các kỹ năng quan sát, mô tả,  
phân tích, so sánh, đánh giá mối quan hệ giữa các sự kiện trong xã hội, đồng thời vận dụng các  
tri thức đã học vào thực tiễn cuộc sống. Qua đó khơi dậy bồi dưỡng tình yêu đất nước, hình  
thành thái đđúng đắn đối với bản thân, gia đình, cộng đồng, kích thích tính ham hiểu biết khoa  
học của học sinh. Để từ đó các có lòng tự hào dân tộcm phát huy mọi khả năng đxây dựng  
một tương lai xứng đáng với lịch sử của dân tộc.  
Chính vì lẽ đó, việc đổi mới phương pháp dạy học lịch sử, cũng như mọi môn học khác,  
học sinh tự mình khám phá ra kiến thức (dưới sự hướng dẫn của giáo viên), tức học sinh hải  
được tiếp xúc với các tư liệu lịch sử: tranh ảnh, bản đồ lịch sử, các di vật, cậu chuyện lịch sử  
được ghi lại thành lời văn dưới dự định hướng kếtl luận của giáo viên để học sinh tự hình  
thành các biể tượng lịch sử.  
II. Phạm vi nghiên cứu:  
Học sinh lớp 5B trường tiểu học Văn Chương.  
B. Nội dung sáng kiến.  
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LUẬN CỦA KINH NGHIỆM  
Kiến thức lịch sử ở tiểu học không được trình bày theo một hệ thống chặt chẽ chỉ  
chọn ra những sự kiện, hiện tượng nhân vật lịch sử tiêu biểu cho một giai đoạn lịch sủ nhất  
định đưa vào chương trình phân môn lịch sử.  
Tuy vậy, những kiến thức trong phân môn lịch sử vẫn đảm bảo tính hệ thống và tính  
logic của lịch sử ở mức đthích nhất định.  
Phân môn lịch sử ở lớp 5 cũng được không nằm ngoài cơ sở trên gồm 32 tiêt với các  
nhân vật lịch sử sự kiện chính sau:  
Nhân vật lịch sử: Bình Tây đại nguyên soái Trương Định, Nguyễn Trường Tộ mong  
muốn đổi mới đất nước, Phan Bội Châu và phong trào Đông Du, quyết chí ra đi tìm đường cứu  
nước.  
Sự kiện lịch sử: Hơn 80 năm chống thực dân Pháp (1858 - 1945), Xô Viết Nghệ Tĩnh,  
các cuộc khởi nghĩa hoạt động yêu nước chống thực dân Pháp đầu thế kỉ 20, thành lập Đảng  
Cộng sản Việt Nam, Cách mạng tháng Tám năm 2945 và tuyên ngôn Độc lập (2/9/1954); Chín  
năm kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954): các chiến dịch quân sự lớn. Chiến thắng Điện  
Biên Phủ. Hiệp định Giơneơ chẩm dứt chiến tranh Đông Dương; Kháng chiến chống Mỹ và xây  
dựng đất nước (1954 - 1975); Xây dựng chủ nghĩa hội trong cả nước (năm 1975 đến nay).  
Với nội dung kiến thức như vậy vừa tầm với học sinh ở lứa tuổi lớp 5. Tuy nhiên,  
thực tế cho thấy học sinh học môn lịch sử thường tiếp thu một cách thụ động do đa số giáo viên  
chỉ dùng một phương pháp đã thuyết trình cốt sao cho học sinh chỉ cần nhớ tên nhân vật  
sự kiện lịch sử đủ. Chính vì vậy học sinh không hứng thú trong các giờ lịch sử đặc biệt  
không hình dung được sinh động về các sự kiện lịch sử đã diễn ra cách các em rất xa. Từ đó dễ  
tạo cho các em có thói quen ỷ lại, thụ động, dễ quên và trì trệ trong tư duy.  
Vì lý do đó, khi mới nhận các em lớp 5B của tôi, qua trao đổi và thông qua 1 số tiết  
dạy lịch sử đầu năm, tôi nhận thấy thực trạng học sinh ở lớp chỉ khoảng 5 em học môn này  
một cách tích cực, khoảng 15 em học trung bình, còn lại 18 em học rất thụ đọng.  
Trên đây là một số cơ sở luận và tình hình thực tế dạy học môn lịch sử lớp 5 mà tôi  
đã gặp phải. Tất nhiên còn nhiều tồn tại ở giáo viên và học sinh. Vậy khi hướng dẫn học sinh  
lĩnh hội kiến thức môn lịch sử như thế nào đphát huy được tính tích cực của học sinh là một  
điều mà tôi và các đồng nghiệp rất quan tâm.  
CHƯƠNG II HỆ THỐNG GIẢI PHÁP  
I. Phương pháp thực hiện:  
Đphát huy tính tích cực của học sinh trong phân môn lịch sử lớp 5 thì việc lựa chọn  
phương pháp dạy học và hướng dẫn học sinh cách học rất quan trọng. Giáo viên phải lựa  
chọn phương pháp sao cho phù hợp với từng bài, với từng đối tượng học sinh sao cho học sinh  
phải tự khám phá ra kiến thức (dưới dự hướng dẫn của giáo viên)vì hoạt động của trò là quá  
trình tự giác, tích cực, tự vận động, nhận thức và phát triển nhưng phải được điều khiển.  
1. Hướng dẫn học sinh cách học bộ môn lịch sử theo từng loại bài:  
Với loại bài dạy về nhân vật lịch sử: Giáo viên yêu cầu học sinh sưu tầm tranh ảnh  
hoặc tư liệu về cuộc sống sự nghiệp của nhân vật lịch sử đó. Kết hợp với đọc sách giáo khoa  
trước ở nhà để nắm được nội dung của bài mới về cuộc ssóng và sự nghiệp của nhân vật lịch sử  
trước khi đến lớp.  
Trước khi nhắc đến nhân vật lịch sử nào đó, giáo viên cần cung cấp để học sinh biết  
được những nét sơ lược về bối cảnh lịch sử (không gian, thời gian)mà nhân vật hoạt động.  
Học sinh tự trình bày cơ sở hiểu biết đã có của mình về nhân vật lịch sử đó.  
Những bài học lịch sử trong đó các nhân vật những lời đối thoại đắt giá thể hiện  
phẩm chất cao quí của nhân vật, học sinh có thể tự đóng vai để diễn lại.  
Với loại bài dạy về sự kiện lịch sử: Việc sưu tầm tranh ảnh tư liệu rất quan trọng để  
các em dễ hình dung, dễ nhớ, nhớ lâu các sự kiện đó. Chính vì vậy học sinh phải sưu tầm tranh  
ảnh từ ở nhà, đọc trước sách giáo khoa kết hợp với những tư liệu sưu tầm được hoặc do giáo  
viên cung cấp để nắm vững được nội dung bài.  
Học sinh được trình bày cơ sở hiểu biết đã có của mình.  
2. Thày và trò chuẩn bị sưu tầm tư liệu, tranh ảnh, bản đồ, tài liệu lịch sử:  
Như trên đã trình bày, một trong những phương pháp dạy học không thể thiếu được  
khi dạ phân môn lịch sử là phương pháp trực quan. Những phương tiện trực quan được sử dụng  
nhiều để dạy môn lịch sử là:  
Tranh ảnh.  
Bản đồ lịch sử.  
Các phương tiện nghe nhìn.  
Di tích lịch sử.  
Nhà bảo tàng lịch sử một số nhà bảo tàng khác.  
Giáo viên cần đối chiếu với những phương tiện mà nhà trường đã trang bị đgiáo viên  
học sinh chủ động trong bài dạy, cùng phối kết hợp với phụ huynh học sinh trong việc sưu  
tầm, đóng góp cho nhà trường. Chủ động đề nghị với Ban giám hiệu cho học sinh khối lớp 5  
được đi tham quan di tích lịch sử hoặc bảo tàng lịch sử ở địa phương hoặc yêu cầu phụ huynh  
học sinh tạo điều kiện tự đưa con em mình đi tham quan những nơi đó.  
3. Dạy học trên lớp:  
Việc hướng dẫn học sinh cách học bộ môn lịch sử theo từng loại bài: việc thày và trò  
chuẩn bị sưu tầm tài liệu, tranh ảnh, tư liệu lịch sử tất cả đều nhằm phục vụ cho việc dạy học ở  
trên lớp với mục đích qua bài học học sinh phát huy được tính tích cực của mình thông qua  
phân môn lịch sử.  
Trước kia chúng ta thường quan niệm học lịch sử phải học thuộc, nạp vào bộ nhớ  
của học sinh theo lối thày đọc, trò chép, học thuộc loàng theo thày, theo sách giáo khoa là đạt  
yêu cầu.  
Nhưng học tập lịch sử theo quan niệm hiện đại không phải là theo cách trên mà là:  
học sinh thông qua làm việc với sử liệu tạo ra hình ảnh lịch sử, tự xậy dựng, tự hình dung  
về quá khứ lịch sử đã diễn ra.  
Cơ sở nhận thức thể, độc lập đó, bằng các biện pháp tương tác xã hội (học theo  
nhóm, học cả lớp, đối thoại thày trò...)mà học sinh xây dựng sự nhận thức đúng đắn về môn  
lịch sử. Muốn làm đuợc điều đó khi dạy học trê lớp, giáo viên cần phải iến hành qua các bước  
sau:  
Bước thứ nhất: Giáo viên cần phải định hướng được mục đích, nêu nhiệm vụ nhận  
thức của tiết học.  
dụ: Bài “Chiến dịch Việt Bắc thu – đông 1947” phần giới thiệu bài giáo viên nói:  
Sau tiếng súng mở đầu ở Nội ngày 19-12-1946 quân dân ta đã phá tan kế hoạch tấn công  
Việt Bắc của địch trong chiến dịch thu-đông 1947. Vì sao lại xuất hiện chiến dịch này? Diễn  
biến của chiến dịch ra sao? Ý nghĩa của chiến dịch là gì? Chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu qua  
bài hôm nay “Chiến dịch Việt Bắc thu – đông năm 1947”.  
Bước thứ hai: Học sinh đọc tài liệu sách giáo khoa, xem tranh ảnh. nghiên cứu đọc  
thêm tư liệu, trao đổi thảo luận nhóm, cá nhân. Học sinh làm phiếu học tập - đại diện nhóm  
trình bày, các bạn trong lớp nghe và góp ý kiến.  
dụ: Bài “Quyết chí ra đi tìm đường cứu nước”  
Khi tìm hiểu một vài nét về thời thơ ấu của Nguyễn Tất Thành.  
Học sinh đọc sách giáo khoa từ đầu ....”người dân Việt Nam thời ấy”, kết hợp với  
những mẩu chuyện, câu chuyện đã sưu tầm đnói lên được thời thơ ấu của Nguyễn Tất Thành  
(làm cá nhân).  
Khi tìm hiểu về sự kiện Nguyễn Tất Thành quyết chí ra đi tìm đường cứu nước:  
Học sinh đóng vai: người dẫn truyện, Nguyễn Tất Thành và anh Lê theo đoạn 3 của  
bài. Từ đó học sinh sễ trả lời được một loạt câu hỏi theo định hướng của giáo viên.  
Nguyễn Tất Thành dự định đi đâu?  
Người sang đó đlàm gì?  
Người ra đi gặp hoàn cảnh như thế nào?  
Thông qua hai bưc ảnh “Bến nhà Rồng” và “Tàu La – tu – sơ Tờ - rê- vin” học sinh dễ  
dàng hình dung được sự kiện lịch sử quan trọng này. Từ đó các em sẽ thảo luận rồi cử đại diện  
nhóm lên trình bày đrút ra bài học.  
dụ 2: Bài “Chiến dịch Việt Bắc thu – đông 1947”  
Để giảng nguyên nhân xuất hiện chiến dịch, tôi treo bản đhành chính Việt Nam, để  
học sinh chỉ được 6 tỉnh thuộc căn cứ địa Việt Bắc từ đó nắm vững được vị trí của căn cứ địa Việt  
Bắc trên bản đồ Việt Nam.  
Sau đó học sinh thảo luận trong nhóm đtìm ra được nguyên nhân xuất hiện chiến  
dịch từ những cơ sở gợi ý của phiếu học tập nội dung SGK rồi viêt ý kiến ra phiếu học tập để  
trình bày.  
Để giảng về diễn biến của chiến dịch:  
Tôi giới thiệu lược đồ của chiến dịch để học sinh nắm được.  
Các em dựa vào lược đSGK đtrình bày ra phiếu học tập cử đại diện trình bày lại  
diễn biến theo phiếu học tập của nhóm mình. Các nhóm khác nhận xét bổ xung nếu thiếu.  
Sau đó học sinh được trực tiếp lên chỉ lược đđnói lại diễn biến của chiến dịch.  
Đtái hiện lại không khí hào hùng của quân và dân ta trên trận đánh sông Lô. gây  
cho địch tổn thất lớn, tôi đã bật băng catset đcác em cung nghe ca khúc “Sông Lô”của nhạc sĩ  
văn Cao.  
Ở phần củng cố:  
Tôi yêu cầu các em lên thuyết minh về những bức tranh hay những bài thơ các em đã  
sưu tầm được theo nhóm có liên quan đến chiến khu Việt Bắc đcác em có thể hình dung được  
căn cứ địa kháng chiến nơi Bác Hồ- Đảng- Chính phủ đã hoạt động lâu dài để chỉ huy cuộc  
kháng chiến chống Pháp của ta.  
Chính nhờ việc sử dụng phong phú đồ dụng dạy học giúp học sinh gần gũi với các sự  
kiện, nhân vật lịch sử hơn dễ gây cho các em ấn tượng sâu sắc, hứng thú tìm tòi, học tập. Nó  
tạo điều kiện cho học sinh dễ nhớ, nhớ lâu phát triển năng lực chú ý quan sat, óc tò mò khoa  
học. Đặc biệt, nó phù hợp với đặc điểm nhận thức, đặc điểm lứa tuổi của các em.  
Bước thứ 3: Giáo viên chốt lại hoặc liên hệ mở rộng.  
Việc giáo viên chốt lại kiến thức, khẳng định kiến hức hoặc liên hệ mở rộng việc  
làm rất cần thiết. Bởi vì: những thông tin học sinh thu lượm được còn rời rạc, kiến thức mà các  
em thu lượm được khác nhau, đôi khi sai lệch hoặc chưa chuẩn. Chính vì vậy, giáo viên phải  
chốt lại chuẩn kiến thức, từ đó mở rộng vừa tầm học cho học sinh, gây cho các em sự hứng thú  
trong giờ học.  
dụ: Bài “Chiến dịch Việt Bắc thu – đông năm 1947”  
Khi tìm hiểu về diễn biến của chiến dịch.  
Sau khi học sinh đọc sách giáo khoa, quan sát lược đồ, trao đổi, thảo luận trong nhóm  
đtrình bày lại diễn biến của chiến dịch. Giáo viên sẽ chốt lại mở rộng:  
Sáng sớm ngày 16-9-1950, quân ta nổ súng đánh chiếm cứ điểm Đông Khê, mở màn  
cho chiến dịch. Đông Khê là cụm cứ điểm quan trọng nằm trên đường số 4 ở giữa Cao Bằng và  
Thất Khê và cũng một mắt xích nối hai khu vực này. Đánh Đông Khê trước tiên mà không  
đánh vào các nơi khác là chủ trương sáng suốt, tài tình của ta vì: Trên phòng tuyến này Cao  
Bằng, Thất Khê lực lượng của địch rất mạnh, nếu đánh vào đây quân ta sẽ bị tổn thất nhiều. Do  
đó ta đánh vào Đông Khê là một mắt xích yếu của địch thì Cao Bằng sẽ bị lập, Thất Khê sẽ bị  
uy hiếp từ đó đtiêu hao nhiều sinh lực địch. Chính vì vậy, ở Đông Khê địch không giám phản  
kích chỉ cố thủ, máy bay địch yểm trợ bắn phá suốt ngày đêm. Quân ta chiến đấu dũng cảm,  
cuộc chiến đấu diễn ra gay go trong từng cốt của địch. Chính vì Đông Khê quan trọng như  
vậy nên Bác Hồ đã ra chỉ đạo trực tiếp trận đánh đài quan sát trên đồi cao. Nhiều tấm gương  
chiến đấu dũng cảm của quân ta và dân ta đã xuất hiện. Trong đó nổi bật tấm gương của  
chiến sĩ bộc phá La Văn Cầu đã nhờ đồng đội chặt đứt cánh tay bị thương rồi tiếp tục xông lên  
phá lô cốt địch, nêu cao lá cờ đầu trong phong trào thi đua “giết giặc, lập công”. Sau 54 giờ  
chiến đấu, ngày 18-9-1950, bộ đội ta đã tiêu diệt hoàn toàn cụm cứ điểm Đông Khê. Sau khi  
mất Đông Khê, quân Pháp được lệnh rút khỏi Cao Bằng theo đường số 4 để phối hợp với cánh  
quân khác từ Thất Khê lên hòng chiếm lại Dông KHê. Đoán được ý định đó của giặc, quân ta  
mai phục trên đường số 4 khiến hai cánh quân từ Cao Bằng về từ Thất Khê lên không liên  
lạc được với nhau, địch bị tiêu diệt ở nhiều nơi, bị bao vây chặt không còn con đường thoát  
chúng ra hàng lượt. Một lần nữa ta lại thấy sự chỉ đạo tài tình của Đảng và Bác Hồ: Chỉ cần  
đánh một điểm yếu mà hai điểm khác phải dấn thân vào chỗ chết. Chiến dịch Biên giới thắng lợi  
rực rỡ, ta giải phóng được một giải biên giới Việt – Trung dài 750 km từ Cao Bằng đến tận Đình  
Lập, đường số 4 sạch bóng quân thù. Và như vậy chúng ta đã đạt được 3 mục tiêu đra: Tiêu  
diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, khai thông biên giới Việt Trung, củng cố mở rộng  
căn cứ địa Việt Bắc.  
II. Tổ chức thực nghiệm (Giáo án).  
Bài soạn môn lịch sử lớp 5.  
Bài 17: CHIẾN DỊCH BIÊN GIỚI THU – ĐÔNG NĂM 1950.  
I. Mục đích và yêu cầu:  
Học sinh nhận thức được cuộc chiến đấu ở biên giới thắng lợi đã góp phần làm thay đổi  
cục diện ở chiến trường Bắc Bộ.  
Giáo dục học sinh tinh thần chịu đựng gian khổ trong mọi hoàn cảnh  
II. Chuẩn bị:  
Giáo viên: Lược đò, tranh tư liệu về chiến dịch Biên giới, phiếu học tập, bảng phụ.  
Học sinh: Tranh ảnh, bài viết sưu tầm liên quan đến chiến dịch Biên giới theo mảng  
phân công:  
Nhóm 1: Những hình ảnh về Bác Hồ trong chiến dịch.  
Nhóm 2: Hình ảnh bộ đội, dân công tham gia chiến dịch.  
Nhóm 3: Những tấm gương của quân, dân ta trong chiến dịch.  
Nhóm 4: Hình ảnh về tù binh địch và lòng nhân đạo của bộ đội ta.  
III. Lên lớp:  
1. Ổn định tổ chức: Cả lớp hát một bài.(1 phút)  
2. Kiểm tra bài cũ: (5 phút)  
Tiết trước các em học bài gì?  
Chỉ lược đđnêu diễn biến của chiến dịch Việt Bắc thu đông năm 1947? (1 học sinh)  
(GV cho điểm)  
Một học sinh nêu ý nghĩa của chiến dịch? (GV cho điểm)  
Giáo viên nhận xét.  
3. Bài mới:  
a. Giới thiệu bài:  
Với thắng lợi của chiến dịch Việt Bắc thu đông năm 1947, ta đã đánh bại hoàn toàn  
chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh”của thực dân Pháp. Và đến thu đông năm 1950 ta đã chủ  
động mở động mở chiến dich biên giới.  
Vì sao lại xuất hiện chiến dịch này? Diễn biến của chiến dịch ra sao? Ý nghĩa của  
chiến dịch ra sao? Cô cùng các con sẽ tự tìm hiểu qua bài:  
“Chiến dịch Biên giới thu đông năm 1950”  
(Giáo viên ghi lại đầu bài - học sinh mở SGK trang 117 ).  
b. Vào bài:  
Giáo viên: Vì sao lại xuất hiện chiến dịch này? Cô trò chúng mình sẽ cùng nhau tìm  
hiểu phần thứ nhất của bài (giảng viên ghi bài)  
*Vì sao xuất hiện chiến dịch biên giới này:  
Để trả lời cho câu hỏi này, các con sẽ làm câu 1 trong phiếu cá nhân của mình.  
Các con đọc SGK từ đầu đến đường huyết mạch này”và tìm xem ta mở chiến dịch  
biên giới thu đông năm 1950 nhằm mục đích gì? Trong phiếu có 5 ô trống điền dấu X vào ý các  
con cho là đúng. Sau đó, các con lên trình bày cho cả lớp nghe.  
Cả lớp làm phiếu học tập – Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm ý.  
Giáo viên treo bảng phụ (Nội dung như trên phiếu học tập)- 1 học sinh lên chữa –  
trình bày.  
Các bạn nhận xét, bổ xung- trình bày.  
Giáo viên chốt kiến thức: Kết hợp chỉ trên lược đvà tranh tư liệu: Sau thất bại ở  
chiến dịch Việt Bắc thu đông năm 1947, nhờ sự giúp sức của đế quốc Mỹ, thực dân Pháp lại  
thực hiện âm mưu thâm độc “khóa chặt biên giới Việt Trung”bằng cách tăng cường hệ thống  
phòng ngự trên đường số 4 một hệ thống trên 40 đồn bốt từ Cao Bằng đến Lạng Sơn nhằm cắt  
đứt đường liên lạc của ta với các nước anh em hòng nhanh chóng kết thúc chiến tranh xâm lược  
ở Việt Nam. Đứng trước âm mưu thâm ssọc của kẻ địch, Bác Hồ đã họp với Đảng - Chính phủ  
Bộ tư lệnh quyết định mở chiến dịch Biên giới nhằm 3 mục đích: Tiêu diệt một bộ phận quan  
trọng sinh lực địch; khai thông biên giới Việt Trung để mở rộng quan hệ với các nước anh em;  
củng cố mở rộng căn cứ địa Việt Bắc nơi đây Bác Hồ - Đảng – Chính phủ hoạt động chỉ huy  
cuộc kháng chiến chông Pháp.  
vậy diễn biến của chiến dịch Biên giới như thế nào? Ta có đạt được mục đích đra  
không? Chúng ta sẽ tìm hiểu phần thứ hai của bài (Giáo viên ghi mục hai)  
* Diễn biến của chiến dịch.  
Giáo viên: Để hiểu điều này các con sẽ đọc tiếp SGK tư “sáng ngày 16-9” đến  
“giành cho chúng một phần” và xem kỹ lược đvà trao đổi, thảo luận với nhau trong nhóm để  
trình bày diễn biến đó vào phiếu học tập.  
Giáo vien phân 4 nhóm – nhóm trưởng – phát phiếu học tập.  
Học sinh thảo luận nhóm.  
Đại diện một nhóm lên trình bày phần thảo luận của nhóm.  
Giáo viên ghi những sự kiện chính lên bảng.  
Ngày 16-9-1950 ta tấn công Đông Khê.  
Ngày 18-9-1950 Đông Khê bị tiêu diệt.  
Địch rút khỏi Cao Bằng, bị tiêu diệt, ra hàng.  
Ta đã thực hiện được 3 mục đích đra  
Các nhóm khác nhận xét - bổ xung nếu thiếu.  
*Giáo viên hỏi:  
Vì sao chiến dịch lại có tên là “Chiến dịch Biên giới thu đông năm 1950”?  
Ai là người chỉ đạo trực tiếp quân ta ở mặt trận Đông Khê?  
Tại sao ta lại đánh Đông Khê mà không đánh Cao Bằng hay Lạng Sơn, Thất Khê?  
Một học sinh lên chỉ lược đồ diễn biến.  
Giáo viên chốt lại: Kết hợp chỉ lược đảnh tư liệu.  
Sáng sớm ngày 16-9-1950, quân ta nổ súng đánh chiếm cứ điểm Đông Khê, Mở màn  
chiến dịch. Đông Khê là cụm cứ điểm quan trọng nằm trên đường số 4 ở giữa Cao Bằng Thất  
Khê và cũng một mắt xích nối hai khu vực này. Đánh Đông Khê trước tiên mà không đánh  
vào các nơi khác là chủ trương sáng suốt, tài tình của ta vì: Trên phòng tuyến này Cao Bằng.  
Thất Khê lực lượng của địch rất mạnh, nếu đánh vào đây quân ta sẽ bị tổn thất nhiều. Do đó ta  
đánh vào Đông Khê là một mắt xích yếu của địch thì Cao Bằng sẽ bị lập, Thất Khê sẽ bị uy  
hiếp từ đó đtiêu hao nhiều sinh lực địch. Chính vì vậy, ở Đông Khê địch không giám phản lích  
chỉ cố thủ, máy bay địch yểm trợ bắn phá suốt ngày đêm.Quân ta chiến đấu dũng cảm, cuộc  
chiến đấu diễn ra gay go trong từng cốt của địch. Chính vì Đông Khê quan trọng như vậy nên  
Bác Hồ đã chỉ đạo trực tiếp trận đánh đài quan sát trên đồi cao. Nhiều tấm gương chiến đấu  
dũng cảm của quân và dân ta đã xuất hiện. Trong đó nổi bật tấm gương của chiến sĩ La Văn  
Cầu đã nhờ đồng đội chặt đứt cánh tay bị thương rồi tiếp tục xông lên phá cốt địch, nêu cao lá  
cờ đầu trong phong trào thi đua “Giết giặc, lập công”. Sau 54 giờ chiến đấu, ngày 18-9-1950,  
bộ đội ta đã tiêu diệt hoàn toàn cụm cứ điểm Đông Khê. Sau khi mất Đông Khê, quân Pháp được  
lệnh rút khỏi Cao Bằng theo đường số 4 để phối hợp với cánh quân khác từ Thất Khê lên hòng  
chiếm lại Đông Khê. Đoán được ý định đó của địch, quân ta mai phục trên đường số 4 khiến cho  
hai cánh quân từ Cao Bằng vè và từ Thất Khê lên không kiên lạc đơc với nhau, địch bị tiêu diệt  
ở nhiều nơi, bị bao vây chặt không còn con đường thoát chúng ra hàng lượt. Một lần nữa ta  
lại thấy sự chỉ đạo sáng suốt và tài tình của Đảng và Bác Hồ; chỉ cần đánh 1 điểm yếu mà hai  
điểm khác phải dấn thân vào chỗ chết. Chiến dịch Biên giới thắng lợi rực rỡ, ta giải phóng được  
một giải biên giới Việt Trung dai f750 km từ Cao Bằng đến tận Đình Lập, đường số 4 sạch bóng  
quân thù. Và như vậy chúng ta đã dạt được 3 mục tiêu đra: Tiêu diệt môt bộ phận quan trọng  
sinh lực địch, khai thông biên giới Việt Trung, củng cố mở rộng căn cứ địa Việt Bắc.  
Chiến dịch Biên giới thu đông thắng lợi có ý nghĩa lịch sử như thế nào đối với Cách  
mạng Việt Nam. Chúng ta cùng nhau tìm hiểu phần thứ 3 của bài (GV ghi bảng).  
* Ý nghĩa lịch sử:  
Các con đọc phần còn lại ở SGK kết hợp với những hiểu biết của mình để thấy được ý  
nghĩa lịch sử của chiến dịch biên giới và ghi lại vào câu hỏi 2 trong phiếu cá nhân.  
Học sinh làm phiếu .  
Học sinh chữa bài - bổ sung.  
Giáo viên chốt lại: Chiến thắng Biên giới đã đánh dấu sự trưởng thành của quân đội  
ta. Từ đó về sau, ta chủ động mở nhiều chiến dịch tiến công, tiêu diệt địch với quy mô ngày  
càng lớn. Đó chính là ý nghĩa lịch sử của chiến dịch Biên giới thu đông năm 1950 đối với Cách  
mạng Việt Nam.  
Giáo viên ghi bảng:  
Đánh dấu sự trưởng thành của quân đội ta.  
Từ đây về sau ta chủ động mở nhiều chiến dịch lớn.  
c. Củng cố:  
Ai là người trực tiếp chỉ đạo ở mặt trận Đồn Khê?  
Quân ta chiến đấu như thế nào?  
Tiêu biểu tấm gương của ai?  
Giáo viên: Đó chính là nội dung bài học ngày hôm nay  
Hai học sinh đọc bài trong SGK.  
Các nhóm lên thuyết minh các bức tranh hoặc tư liệu mà nhóm mình sưu tầm được.  
* Dặn nhận xét:  
Về nhà học thuộc bài, trả lời câu hỏi SGK.  
Chuẩn bị bài sau: Hậu phương những năm sau chiến dịch Biên giới  
Nhận xét giờ học.  
IV. Kết quả bước đầu thu được.  

Tải về để xem bản đầy đủ

doc 12 trang huongnguyen 16/02/2025 120
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Phát huy tính tích cực của học sinh khi dạy môn Lịch sử Lớp 5", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_phat_huy_tinh_tich_cuc_cua_hoc_sinh_kh.doc