Sáng kiến kinh nghiệm Tích hợp kiến thức liên môn trong dạy học Vật lý 8

Môn vật lý ở trường trung học cơ sở là một trong số những môn học quan trọng nhất. Học vật lý là học cách nghiên cứu, giải thích các hiện tượng xảy ra trong thực tế một cách chính xác, logic. Học sinh được làm việc nhiều từ việc phát hiện những kiến thức mới đến việc vận dụng kiến thức vào làm bài tập thực tế. Động lực thúc đẩy học sinh hoạt động học tập tích cực là quá trình nảy sinh mâu thuẫn giữa yêu cầu, nhiệm vụ nhận thức với tri thức và kinh nghiệm sẵn có. Học sinh lớp 8 là khối lớp vẫn còn nhiều bỡ ngỡ ở cấp trung học cơ sở, các em tiếp nhận kiến thức qua nghiên cứu bài ở nhà, qua việc quan sát kênh hình, kênh chữ, qua phương pháp truyền thụ của giáo viên. Do đó mỗi giáo viên phải giúp học sinh tiếp thu những kiến thức một cách nhẹ nhàng thoải mái, tổ chức các hoạt động học tập giúp các em thấy hứng thú và tự giác tích cực độc lập trong việc tiếp thu những kiến thức mới cũng như việc vận dụng những kiến thức đã học vào trong thực tế cuộc sống. Xuất phát từ những lý do trên nên tôi xin trình bày một số giải pháp dạy học theo hướng tích hợp nhằm khơi gợi hứng thú và tăng cường tính tích cực chủ động, giáo dục toàn diện cả đức trí thể mỹ cho học sinh.
Tích hợp kiến thức liên môn trong dạy học vật lý
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÀ NỘI  
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM  
TÍCH HỢP KIẾN THỨC LIÊN MÔN  
TRONG DẠY HỌC VẬT LÝ 8  
- Môn: Vật lý  
- Cấp học: THCS  
- Tác giả: Nguyễn Thế Vinh  
Chức vụ: Giáo viên  
- Đơn vị công tác: Trường THCS Thái Thịnh – Đống Đa – Nội  
Năm học: 2019 - 2020  
Trang 1/17  
Tích hợp kiến thức liên môn trong dạy học vật lý 8  
PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ  
I. Lý do chn đề tài  
Môn vật lý ở trường trung học cơ sở là một trong số những môn học quan  
trọng nhất. Học vật lý là học cách nghiên cứu, giải thích các hiện tượng xảy ra  
trong thực tế một cách chính xác, logic. Học sinh được làm việc nhiều từ việc  
phát hiện những kiến thức mới đến việc vận dụng kiến thức vào làm bài tập thực  
tế. Động lực thúc đẩy học sinh hoạt động học tập tích cực là quá trình nảy sinh  
mâu thuẫn giữa yêu cầu, nhiệm vụ nhận thức với tri thức và kinh nghiệm sẵn có.  
Học sinh lớp 8 là khối lớp vẫn còn nhiều bỡ ngỡ ở cấp trung học cơ sở, các em  
tiếp nhận kiến thức qua nghiên cứu bài ở nhà, qua việc quan sát kênh hình, kênh  
chữ, qua phương pháp truyền thụ của giáo viên. Do đó mỗi giáo viên phải giúp  
học sinh tiếp thu những kiến thức một cách nhẹ nhàng thoải mái, tổ chức các  
hoạt động học tập giúp các em thấy hứng thú và tự giác tích cực độc lập trong  
việc tiếp thu những kiến thức mới cũng như việc vận dụng những kiến thức đã  
học vào trong thực tế cuộc sống. Xuất phát từ những lý do trên nên tôi xin trình  
bày một số giải pháp dạy học theo hướng tích hợp nhằm khơi gợi hứng thú và  
tăng cường tính tích cực chủ động, giáo dục toàn diện cả đức trí thể mỹ cho học  
sinh.  
II. Lịch sử đề tài  
Trong thực tế đã có nhiều giáo viên nghiên cứu về phương pháp khơi gợi  
hứng thú và tăng cường tính tích cực chủ động cho học sinh, song việc dạy học  
theo hướng tích hợp còn hạn chế, bên cạnh đó do nhiều nguyên nhân khác nhau  
mà bài tập định tính và câu hỏi thực tế đã bị xem nhẹ, thậm chí dường như đã bị  
ng quên trong các giờ học vật lý, điều đó dẫn đến một thực trạng đáng buồn là  
giờ học vật lý trở nên khô khan, rời rạc xa dời thực tế, khả năng vận dụng kiến  
thức vật lý vào thực tế cuộc sống của một bộ phận lớn học sinh hiện nay thực sự  
yếu kém. Qua nhiều năm giảng dạy, tôi thấy đại bộ phận học sinh rất lúng túng  
khi gặp bài tập định tính và câu hỏi thực tế cũng như bài tập mang tính tích hợp.  
Bản thân tôi luôn suy nghĩ làm thế nào để giúp học sinh hứng thú, tích  
cực chủ động làm tốt các bài tập mang tính tích hợp, bài tập định tính và câu hỏi  
thực tế nhằm giáo dục học sinh một cách toàn diện. Vì vậy, tôi đã nghiên cứu  
đưa ra một số giải pháp mà tôi bắt đầu áp dụng đề tài này từ học kì II năm 2018  
2019 trong quá trình giảng dạy bồi dưỡng học sinh giỏi cũng như học sinh đại  
trà mà tôi được đảm nhận.  
III. Mc đích nghiên cu  
- Xây dựng một hệ thống các bài tập định tính, bài tập tích hợp liên môn và  
hiện tượng vật lý thực tiễn có thể vận dụng vào bài giảng trong chương trình vật  
lý 8 phương pháp khơi gợi hứng thú, tăng cường tính tích cực chủ động cho học  
sinh  
- Vận dụng hệ thống các bài tập định tính và hiện tượng thực tiễn ở trên vào  
bài giảng nhằm giáo dục ý thức và tăng hứng thú học tập bộ môn cho học sinh.  
Trang 2/17  
Tích hợp kiến thức liên môn trong dạy học vật lý 8  
IV.Nhim vụ và phương pháp nghiên cứu  
1) Nhiệm vụ nghiên cứu  
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận liên quan tới việc dạy học theo  
hướng tích hợp nhằm khơi gợi hứng thú, tăng cường tính tích cực chủ động cho  
học sinh.  
- Mô tả thực trạng dạy và học vật lý hiện nay, phân tích, đánh giá thực  
trạng đó.  
- Đề xuất các biện pháp, giải pháp, khuyến nghị.  
2) Phương pháp nghiên cứu  
- Tham kho tài liu, thu thp tài liu.  
- Phân tích, tng kết kinh nghim.  
- Điu tra trc tiếp thông qua các gidy  
V. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu  
1) Phm vi nghiên cu  
- Các bài dạy trong chương trình vật lý 8  
2) Đối tượng nghiên cu  
- Đề tài áp dng đối vi hai nhóm đối tượng:  
+ Giáo viên dạy vật lý lớp 8  
+ Học sinh lớp 8 bao gồm học sinh giỏi, khá, trung bình, yếu, kém.  
VI. Điểm mới nhất trong kết quả nghiên cứu.  
- Sáng kiến đã hệ thống được một số giải pháp dạy học theo hướng tích  
hợp nhằm khơi gợi hứng thú, nâng cao tính tích cực chủ động, giáo dục tinh thần  
yêu nước cho học sinh cùng các ví dụ cụ thể minh chứng cho mỗi giải pháp.  
- Sáng kiến đã đưa ra được một hệ thống các câu thơ, bài thơ lục bát được  
sử dụng để hỗ trợ việc dạy và học các bài tập định tính và câu hỏi thực tế vật lý  
8 cùng các biện pháp sử dụng các câu thơ này một cách linh hoạt, sáng tạo.  
- Sáng kiến có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho giáo viên khi dạy  
vật lý lớp 8.  
Trang 3/17  
Tích hợp kiến thức liên môn trong dạy học vật lý 8  
PHẦN II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ  
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC TÍCH HỢP KIẾN  
THỨC LIÊN MÔN TRONG DẠY HỌC VẬT LÝ 8  
I. Cơ slí lun  
Nghị quyết hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản toàn diện  
giáo dục và đào tạo nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học  
theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến  
thức kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ  
máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để  
người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển  
từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt  
động xã hội, ngoại khóa nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ  
thông tin và truyền thông trong dạy và học.  
Để làm được điu đó thì vật lý đóng mt vai trò hết sc quan trong. Vật lý  
học là một trong những môn khoa học về tự nhiên, nhiệm vụ chủ yếu của nó là  
nghiên cứu các hiện tượng tự nhiên tìm nguyên nhân, khám phá ra các định luật  
nhằm phục vụ lợi ích của con người. Vật lý là cơ sở cho nhiều ngành kỹ thuật.  
Những thành tựu của vật lý và kỹ thuật phục vụ rất nhiều cho cuộc sống của con  
người trên mọi mặt. Chính vì vy, hơn ai hết giáo viên dạy vật lý là người phi  
suy nghĩ: Làm thế nào để khơi gợi hứng thú, tích cc hoá hot động ca hc  
sinh, khơi dy và phát trin khnăng thc nhm hình thành cho hc sinh tư  
duy tích cc, độc lp, sáng to, nâng cao năng lc phát hin và gii quyết vn  
đề, rèn luyn kĩ năng vn dng vào thc tiễn, tác động đến tình cm, đem li  
nim vui và hng thú hc tp cho hc sinh.  
Dạy học tích hợp sẽ mang lại nhiều lợi ích như giúp học sinh áp dụng  
được nhiều kỹ năng, nền tảng kiến thức tích hợp giúp việc tìm kiếm thông tin  
nhanh hơn, khuyến khích việc học sâu và rộng, thúc đẩy thái độ học tập tích cực  
đối với học sinh. Với cách dạy này, người thầy không chỉ đơn thuần là truyền  
thụ kiến thức mà giữ vai trò điều hành các hoạt động của các lớp học, tức là có  
nhiệm vụ tổ chức, hướng dẫn học sinh học tập, giúp các em tự tìm kiếm thông  
tin theo chủ đề có tính chất khái quát và chuyên sâu; tích cực, chủ động thu nhận  
kiến thức để có thể vận dụng vào thực tiễn, bồi dưỡng kỹ năng sống cho học  
sinh, tạo hứng thú và động lực cho việc học.  
II. Thực trạng của việc dạy và học vật lý ở trung học cơ sở  
Môn vật là một trong những môn học khó, nếu không có những bài  
giảng và phương pháp hợp lý phù hợp với thế hệ học trò dễ làm cho học sinh thụ  
động trong việc tiếp thu, cảm nhận. Trong quá trình giảng dạy vật lý tôi nhận  
thấy nhìn chung giáo viên chỉ mới dừng lại ở việc cung cấp cho học sinh những  
kiến thức để các em thi lấy điểm cao, hoặc quá nặng nề về tính toán trong vật lý,  
giáo viên chưa truyền cho học sinh niềm yêu thích, ham mê tìm hiểu và giải  
thích các hiện tượng vật lý thực tế, chưa hiểu mối quan hệ giữa vật lý với cuộc  
sống và các giá trị lịch sử xã hội, ý thức bảo vệ môi trường còn thấp dẫn đến  
Trang 4/17  
Tích hợp kiến thức liên môn trong dạy học vật lý 8  
hiện tượng một bộ phận học sinh không muốn học vật lý, ngày càng lạnh nhạt  
với giá trị thực tiễn của vật lý. Thực tế giảng dạy cho thấy học sinh sẽ thấy hứng  
thú và dễ ghi nhớ hơn nếu trong quá trình dạy và học giáo viên luôn có định  
hướng liên hệ giữa kiến thức sách giáo khoa với thực tiễn đời sống hằng ngày.  
CHƯƠNG II: NHỮNG BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ  
A. MỘT SỐ GIẢI PHÁP DẠY HỌC THEO HƯỚNG TÍCH HỢP  
I. Tích hợp kiến thức văn thơ vào dạy học vật lý: Sử dụng thơ lục bát là thể thơ  
đậm đà bản sắc của dân tộc Việt Nam, một thể thơ dễ thuộc dễ nhớ vào trong  
các khái niệm và hiện tượng vật lý thực tế.  
Không giống thơ Đường, chỉ thông dụng trong giới trí thức tức là các nhà  
Nho thuở trước, hai thể thơ của Việt Nam, đặc biệt là thơ lục bát, được phổ cập  
trong mọi giai tầng xã hội. Lý do là thơ lục bát không bị bó buộc bởi các luật lệ  
chặt chẽ về niêm và đối như thơ Đường. Thêm nữa, vì không bị giới hạn về  
khuôn khổ số câu nên thể lục bát thường được sử dụng để thuật chuyện, một  
trong những hình thức giải trí không thể thiếu của người xưa. Trong dòng văn  
chương bình dân, lục bát hầu như là thể thơ độc nhất được sử dụng trong kho  
tàng ca dao đồ sộ của dân tộc. Đối với người xưa, ngoài tính cách giải trí, ca dao  
còn được mang mục đích giáo huấn con em. Thật vậy, thời trước rất ít người  
được cắp sách đến trường, nên phương tiện để dạy dỗ các em về luân lý và các  
kinh nghiệm sống được gói ghém trong văn chương truyền khẩu gồm ca dao, tục  
ngữ, và truyện cổ. Thêm nữa, lục bát là thể thơ thường được dùng trong các lối  
hát dân gian như quan họ, trống quân, hát chèo, hát đúm, hát xẩm, hát ru em, hát  
gặt lúa, hát giã gạo, hát đưa đò, hát phường vải, hát chầu văn, và hò ...chúng ta  
khó thể tưởng tượng được một người Việt Nam mà không biết đến thơ lục bát,  
không thuộc nằm lòng vài bài thơ lục bát. Việc sử dụng thơ lục bát trong dạy và  
học vật lý sẽ giúp giờ học trở nên nhẹ nhàng, sinh động, hấp dẫn. Các khái niệm  
hiện tượng vật lý vốn khô khan khi được truyền tải bằng thơ lục bát giúp các em  
học sinh lĩnh hội một cách tự nhiên, dễ ghi nhớ qua đó mà nâng cao hứng thú  
học tập, hiểu bài một cách sâu sắc. Dưới đây là một vài cách sử dụng hiệu quả  
thơ lục bát trong dạy và học vật lý.  
1.Cách 1: Cho học sinh ghi nhớ các kết luận thông qua các câu thơ lục bát  
Ví dụ 1: Vận tốc của tàu hỏa là 36 km/h và vận tốc của một xe đạp là 5m/s. Hãy  
cho biết tàu hỏa hay xe đạp đi nhanh hơn?  
36km/h=10m/s>5m/s.  
Nên tàu hỏa đi nhanh hơn.  
Sau khi làm xong bài tập này giáo viên đặt câu hỏi các em rút ra bài học kinh  
nghiệm gì thông qua bài tập vừa rồi. Các em học sinh có thể trả lời được là  
muốn biết chuyển động nào nhanh hơn phải so sánh vận tốc và trước khi so sánh  
phải đổi về cùng một đơn vị. Giáo viên có thể đọc bài thơ sau đây:  
Muốn biết chuyển động chậm nhanh  
Phải xem vận tốc ai dành phần hơn  
Trang 5/17  
Tích hợp kiến thức liên môn trong dạy học vật lý 8  
Tưởng dễ nhưng chớ khinh nhờn  
Trước khi so sánh đổi đơn vị kìa.  
Ví dụ 2: Kết luận về sự tồn tại của áp suất trong lòng chất lỏng  
Áp suất chất lỏng đặt lên  
Đáy, thành, mọi vật ở bên trong bình  
Ví dụ 3: Kết luận về sự tồn tại của áp suất khí quyển  
Áp suất khí quyển đặt lên  
Mọi phương, mọi vật ở trên địa cầu (Trái Đất)  
Ví dụ 4: Định luật về công  
Lợi lực lại thiệt đường đi  
Lợi đường thiệt lực, hơn gì công đâu!  
2.Cách 2: Trả lời một số hiện tượng vật lý thực tế bằng thơ lục bát  
Ví dụ 5: Vì sao các vận động viên nhảy dù, nhảy cao, nhảy xa lúc tiếp đất chân  
đều khuỵ xuống?  
Nhảy xuống ta phải khụy chân  
Là do quán tính phần thân chưa ngừng  
Bàn chân chạm đất đã dừng  
Nếu mà chẳng khụy không chừng gẫy xương.  
Ví dụ 6:  
Ngồi xe nhớ thắt an toàn  
Phòng khi phanh gấp thân toan lộn nhào.  
Ví dụ 7: Trường học của em gần đường sắt. Quan sát trên đường ray thường đặt  
nhiều thanh tà vẹt nằm ngang. Em hãy tìm hiểu và cho biết thanh đó có tác dụng  
gì?  
Đường sắt thật lắm thanh ngang  
Giảm bớt áp lực ray mang trên mình  
Ví dụ 8: Tại sao kim, khoan dùi đục đột thường được làm nhọn đầu?  
Kim khoan dùi đục nhọn đầu  
Giúp tăng áp suất đâm sâu dễ dàng  
Ví dụ 9: Em hãy giải thích tại sao máy kéo nặng nề có thể di chuyển dễ dàng  
trên nền đất mềm trong khi ô tô nhẹ hơn máy kéo nhiều lần lại bị sa lầy trên  
chính quãng đường đó?  
Tại sao máy kéo nặng nề  
Chạy trên nền đất chẳng hề lún sâu  
Nhờ rộng bánh xích chứ đâu (diện tích bị ép lớn)  
Áp lực giảm xuống trên đầu mét vuông (áp suất giảm)  
Ví dụ 10: Ai cũng biết nằm trên đệm mút lại thấy êm ái dễ chịu hơn là nằm trên  
phản bằng gỗ? Hãy giải thích tại sao?  
Đệm mút có thể biến hình  
Theo phần tiếp xúc thân mình nằm trên  
Diện tích bị ép tăng lên  
Áp suất giảm bớt, thấy êm hơn giường  
dụ 11: Lúc cất cánh và trước khi hạ cánh, người phục vụ trên máy bay phân  
phát cho hành khách kẹo để nhằm mục đích gì?  
Trang 6/17  
Tích hợp kiến thức liên môn trong dạy học vật lý 8  
Lên cao đột ngột ù tai  
Áp suất khí quyển khác sai ít nhiều  
Nhai kẹo, giải pháp mỹ miều  
Cân bằng áp suất là điều nên theo  
Ví dụ 12: Vì sao nắp ấm pha trà thường có một lỗ hở nhỏ?  
Lỗ nhỏ trên nắp ấm trà  
Giúp cho không khí đi ra đi vào  
Nước ơi nước chảy đi nào  
Trong, ngoài khí áp tiêu hao nhau rồi  
Ví dụ 13: Tại sao trên núi cao không thể luộc chín trứng theo cách thông  
thường? Biết nhiệt độ sôi của nước giảm theo áp suất khí quyển và trứng chỉ  
chín khi nước sôi ở 1000C.  
Càng cao khí loãng càng nhiều  
Áp suất giảm xuống là điều hiển nhiên  
Nhiệt sôi của nước thấp liền  
Cố chi luộc trứng cho phiền thêm ra  
Càng lên cao áp suất khí quyển càng giảm, dẫn đến nhiệt độ sôi của nước giảm  
(không còn là 1000C nữa) mà trứng chỉ chín được khi nước sôi ở 1000C.  
Ví dụ 14: Cái kim bằng thép thả vào trong nước thì chìm? Vì sao? Vậy tại sao  
cái tàu bằng thép lớn hơn kim rất nhiều lần lại nổi trên mặt nước?  
Kim thép có trọng lượng riêng  
Lớn hơn của nước nên liền chìm thôi  
Tàu lớn nhưng rỗng mấy nơi  
Trung bình tỉ trọng giảm vơi đi nhiều  
3. Cách 3: Sử dụng thơ lục bát để đặt câu hỏi khi kiểm tra bài cũ, kiểm tra  
định kì, dẫn dắt bài học….  
Ví dụ 15: Em hãy đọc và nêu ý nghĩa vật lý của bài thơ sau  
Phân biệt chuyển động đứng im  
Nhìn quanh vật đó mà tìm mốc so  
Khoảng cách em chớ có đo  
Quan tâm vị trí mới lo đứng dời  
Lấy ví dụ minh họa cho bài thơ trên?  
Ví dụ 16: Em hãy đọc và nêu ý nghĩa vật lý của bài thơ sau  
Sâu dưới mặt thoáng càng nhiều  
Áp suất càng lớn là điều hiển nhiên  
Trong cùng chất lỏng đứng yên  
Bằng nhau áp suất đương nhiên sâu cùng  
Ý nghĩa vật lý của bài thơ trên là: Càng xuống sâu dưới mặt thoáng của chất  
lỏng thì áp suất càng lớn. Trong cùng một chất lỏng đứng yên, những điểm nằm  
trên cùng một mặt phẳng nằm ngang (có cùng độ sâu so với mặt thoáng) thì có  
áp suất bằng nhau.  
Giáo viên có thể yêu cầu học sinh vẽ hình minh họa.  
Từ ý nghĩa vật lý bài thơ trên em hãy giải thích tại sao khi lặn con người luôn  
có cảm giác tức ngực và càng lặn sâu thì cảm giác tức ngực càng tăng lên?  
Trang 7/17  
Tích hợp kiến thức liên môn trong dạy học vật lý 8  
Ví dụ 17:  
Bốn nghìn mét dưới nước sâu  
Trăm năm nằm đó xác tàu cô đơn  
Tính áp suất do nước biển tác dụng lên xác tàu Titanic bị đắm năm 1912 ở độ  
sâu 4000m so với mặt nước biển? Biết trọng lượng riêng của nước biển là 10300  
N/m3  
Ví dụ 18:  
Biển Chết  
Nghe tên Biển Chết hãi ghê  
Nhưng mà đến đó chẳng hề sợ đâu  
Nước biển rất mặn từ lâu  
Con người cứ nổi, chìm sâu không thành  
Bài thơ trên nói về Biển Chết. Em hãy cho biết Biển Chết nằm ở đâu và tại  
sao con người khi đến biển chết dù biết bơi hay không vẫn luôn nổi trên mặt  
nước Biển Chết?  
Do nước biển rất mặn nên trọng lượng riêng của nước biển ở đây rất lớn, lớn  
hơn trọng lượng riêng của cơ thể con người chính vì vậy mà con người luôn nổi  
trên mặt Biển Chết.  
II. Tích hợp kiến thức thể dục thể thao vào dạy học vật lý  
Ví dụ 19: Thành tích tốt nhất của em trên đường chạy 100m là bao nhiêu giây?  
Hãy tính vận tốc trung bình của em trên quãng đường ấy và so sánh với các bạn  
cùng lớp xem ai chạy nhanh hơn, ai chạy chậm hơn?  
Ví dụ 20: Trong bóng đá, khi một hậu vệ muốn cản phá tiền đạo đối phương  
đang mở tốc độ xuống bóng rất nhanh thì thường dùng vai chèn vào tiền đạo đó  
và lấy sức nâng người ấy lên. Tại sao làm thế lại khiến tiền đạo đối phương  
không thể gia tăng vận tốc?  
Hướng dẫn: Khi nâng cơ thể đối phương lên người hậu vệ đã làm giảm bớt lực  
tác dụng giữa chân với mặt đất, tức là giảm lực ma sát đóng vai trò lực tăng vận  
tốc của đối phương.  
dụ 21: Trong các cuộc đua maratong hay đua xe đạp, ta thường thấy có một  
số vận động viên thường bám sát sau đối thủ của mình, chỉ khi gần tới đích họ  
mới cố vượt lên phía trước? Vì sao vậy?  
Hướng dẫn: Để làm giảm ma sát của gió.  
Ví dụ 22: Quan sát một vận động viên ném tạ xích ta thấy lúc đầu vận động viên  
thường quay dây xích rất nhanh để quả tạ chuyển động tròn quanh người, sau đó  
bất ngờ buông tay thả dây xích cho nó chuyển động tự do. Động tác đó nhằm  
mục đích gì?  
Hướng dẫn: Động tác quay tạ của vận động viên làm cho quả tạ chuyển động  
nhanh với vận tốc lớn, khi thả dây xích do có quán tính lớn mà quả tạ có thể  
văng rất xa.  
Ví dụ 23: Tại sao dùng sào nhảy, các nhà thể thao có thể nhảy được tới ba, bốn  
mét?  
Hướng dẫn: Nhảy cao tức là biến đổi động năng (có được do nhún chân) thành  
thế năng. Động năng ban đầu càng lớn thì biến đổi thành thế năng càng lớn tức  
là càng cao. Do đó muốn nhảy được cao người ta phải chạy lấy đà để tăng thêm  
động năng ban đầu. Nếu không dùng sào, chân người nhảy chỉ biến đổi được  
Trang 8/17  
Tích hợp kiến thức liên môn trong dạy học vật lý 8  
một phần nhỏ động năng của người đó (thu được trong khi chạy lấy đà) thành  
thế năng. Thế năng của người nhảy ở vị trí cao nhất phần lớn do công của chân  
đẩy người lên theo phương thẳng đứng. Vì vậy một nhà thể thao nổi tiếng về  
nhảy cũng chỉ nhảy cao được hơn hai mét. Khi nhảy sào, người nhảy đã khéo sử  
dụng con sào biến đổi được hầu hết động năng khi chạy lấy đà thành thế năng.  
Như vậy, dùng sào nhảy ngoài sức đẩy của chân, người nhảy còn tận dụng được  
động năng của mình, và sử dụng được tay đẩy mình lên cao thêm, cho nên có  
thể nhảy cao được tới ba, bốn mét.  
Ví dụ 24: Vì sao một vận động viên nhảy xa lại chạy lấy đà rồi mới nhảy, không  
đứng tại chỗ mà nhảy?  
Hướng dẫn: Nếu người đó chạy lấy đà rồi mới nhảy, thì trước khi nhảy người đó  
đã có một vận tốc nhất định nào đó. Khi đó người này có lực quán tính do có đà  
kết hợp với lực bật nhảy của chân sẽ làm cho người này nhảy đi xa hơn rất nhiều  
so với bật nhảy tại chỗ.  
Ví dụ 25: Tại sao lúc rơi xuống, các vận động viên nhảy cao và nhảy xa phải co  
hai chân lại?  
Hướng dẫn: Nhờ co hai chân ở giai đoạn cuối bước nhảy, vận động viên tạo  
thêm được đường để hãm, và nhờ thế giảm bớt được lực va xuống đất.  
III. Tích hợp kiến thức lịch sử, kiến thức về chủ quyền biển đảo nhằm giáo dục  
tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, ý thức bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ.  
Trong tình hình vấn đề biển đảo đang có những diễn biến phức tạp thì việc  
lồng ghép nội dung giáo dục tinh thần bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh hải, giáo  
dục tinh thần tự hào dân tộc thông qua các câu chuyện về danh nhân đất Việt là  
một trong những nhiệm vụ cấp bách không chỉ của riêng môn học nào.  
Ví d26: Thay vì bài tp:  
“Một tàu ngầm đang di chuyển ở dưới biển.Tại một thời điểm nào đó áp kế đặt  
ngoài vỏ tàu chỉ áp suất 2,06.106 N/m2. Một lúc sau áp kế chỉ áp suất  
1,03.106N/m2.  
a) Hỏi tàu đã nổi lên hay đã lặn xuống?  
b) Tính độ sâu của tàu ngầm ở 2 thời điểm trên? ”  
Giáo viên có thể cho bài tập này: “Hai tàu ngầm Hoàng Sa, Trường Sa của Việt  
Nam đang thử nghiệm di chuyển ở dưới biển. Tại một thời điểm nào đó áp kế  
đặt ngoài vỏ tàu Trường Sa chỉ áp suất 0,206.106 N/m2 còn áp kế đặt ngoài vỏ  
tàu Hoàng Sa chỉ áp suất 0,103.106N/m2. Cho trọng lượng riêng nước biển là  
10300N/m3”  
a) Hỏi tàu ngầm nào đang lặn sâu hơn?  
b) Tính độ sâu của hai tàu ngầm ở thời điểm trên?  
Thông qua bài tập này học sinh sẽ thấy được rằng Việt Nam cũng đang có  
những nhà khoa học đang nghiên cứu để chế tạo tàu ngầm, và cũng có thể một  
lần nữa khẳng định: “Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam”  
Ví d27: Đọc các câu chuyện dưới đây và trả li câu hi?  
Câu chuyn thnht: “Một hôm Vinh đem một trái bưởi ra bãi tha ma  
làm quả bóng để các bạn cùng chơi. Bỗng quả bưởi lăn xuống một trong những  
cái hố bên mép bãi người ta đào để ngăn trâu bò khỏi phá lúa. Cái hố rất hẹp và  
Trang 9/17  
Tích hợp kiến thức liên môn trong dạy học vật lý 8  
sâu không xuống mà cũng không với tay lấy lên được. Bọn trẻ tưởng thế là mất  
đồ chơi. Nhưng Vinh nghĩ một lát, rồi mới hớn hở rủ bạn đi mượn vài chiếc gầu  
giai đi múc nước đổ xuống hố. Bọn trẻ không hiểu Vinh làm thế để làm gì.  
Nhưng lát sau thấy Vinh cúi xuống cầm quả bưởi lên, chúng rất sửng sốt phục  
tài Vinh. Hóa ra thì trước đây Vinh trèo cây hái bưởi bên bờ ao, sẩy tay cậu làm  
rơi quả bưởi xuống nước tưởng mất. Nhưng khi nhìn thấy bưởi nổi trên mặt ao,  
Vinh đã lấy cành tre khều vào và đem ra bãi chơi. Lúc quả bưởi lăn xuống hố,  
cậu đã chợt nhớ lại và nghĩ ra cách lấy nước đổ xuống cho bưởi nổi lên.”  
Câu chuyện thứ hai: “Ngày xưa, vua quan Trung Quốc thường cậy thế  
nước lớn, coi thường nước ta, cho nước ta là man di, mọi rợ. Một lần sứ nhà  
Minh là Chu Hy sang nước ta, vua Thánh Tông sai Lương Thế Vinh ra tiếp. Hy  
đã nghe nói về Lương Thế Vinh, không những nổi tiếng về văn chương âm  
nhạc, mà còn tinh thông toán học, nên thách đố Vinh cân một con voi. Lương  
Thế Vinh đưa voi lên một chiếc thuyền rồi đánh dấu mép nước bên thuyền, sau  
đó dắt voi lên. Tiếp theo, ông ra lệnh đổ đá hộc xuống thuyền, cho đến lúc  
thuyền chìm xuống đến đúng dấu cũ. Việc còn lại là đưa từng viên đá lên cân và  
cộng kết quả. Chu Hy thán phục ông nhưng tiếp tục đố ông đo bề dày của một tờ  
giấy xé ra từ một quyển sách. Khi nghe ông nói chỉ cần đo bề dày cả cuốn sách  
rồi chia đều cho số tờ là ra ngay kết quả, Chu Hy ngửa mặt lên trời than: "Nước  
Nam quả có lắm người tài!".  
Dùng kiến thc vlực đẩy Acsimet em hãy gii thích cách ly quả bưởi  
và cách cân voi ca Trạng Lường Lương Thế Vinh? Lên mng tìm các thông tin  
vsnghip ca Trạng Lường Lương Thế Vinh để minh chứng cho tài năng  
toán hc và vt lý ca Trng?  
IV. Tích hợp kiến thức sinh học vào dạy học vật lý  
dụ 28: Lúc chạy để tránh con chó đuổi bắt, con cáo thường thoát thân bằng  
cách bất thình lình rẽ ngoặt sang hướng khác, đúng vào lúc con chó định ngoạm  
cắn nó. Tại sao làm như vậy chó lại khó bắt được cáo?  
Hướng dẫn: Khi cáo bất thình lình thay đổi hướng chạy, con chó sẽ không thể  
chạy được theo cáo, vì theo quán tính chó còn phải chạy hướng cũ thêm một lúc.  
Ví dụ 29: Tại sao khi nhổ cỏ dại không nên dứt quá đột ngột, kể cả khi rễ cỏ  
bám trong đất không được chắc?  
Hướng dẫn: Khi nhổ cỏ quá đột ngột thì rễ cỏ chưa kịp chuyển động thân đã bị  
đứt. Rễ vẫn nằm trong đất, cỏ dại sẽ nhanh chóng mọc lại.  
Ví dụ 30: Trong lúc bơi nhanh có một số cá ép vây sát vào mình để nhằm mục  
đích gì? Tại sao khó cầm được con cá còn sống trong tay?  
Hướng dẫn: Cá ép vây sát vào mình để giảm bớt lực cản. Khó cầm được cá còn  
sống trên tay bởi sự ma sát của cá trên tay nhỏ, do đó cá dễ tuột khỏi tay.  
Ví dụ 31: Quan sát các loài chim bơi lội dưới nước (vịt, ngỗng...) có thể nhận  
thấy chúng bị chìm xuống nước ít. Hãy giải thích rõ tại sao?  
Hướng dẫn: Lớp lông dày che phủ toàn thân các loài chim bơi được dưới nước  
không thấm nước và chứa một lượng khá lớn không khí. Nhờ đó mà thân chim ở  
dưới nước có khối lượng riêng nhỏ và không bị chìm sâu vào nước.  
Ví dụ 32: Tại sao ở các căn phòng lạnh, đôi chân bị lạnh trước tiên?  
Trang 10/17  

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 18 trang huongnguyen 02/01/2025 180
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Tích hợp kiến thức liên môn trong dạy học Vật lý 8", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_tich_hop_kien_thuc_lien_mon_trong_day.pdf