SKKN Áp dụng dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh vào môn Sinh học 6
Sau khi dự lớp tập huấn và nghiên cứu các tài liệu viết về dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh, tôi thấy trong số các phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh thì dạy học theo Phương pháp bàn tay nặn bột là phương pháp được áp dụng ở các nước phát triển trên thế giới và có thể vận dụng vào giảng dạy ở Việt Nam. Do cơ sở vật chất của phần đông các nhà trường ở Việt Nam còn thiếu thốn nên dạy học theo PPBTNB phải tùy vào từng bài cụ thể để áp dụng.
TÓM TẮT SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến.
Trên cơ sở nhận thức về định hướng đổi mới giáo dục của Nhà nước, về
tầm quan trọng của dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh, tôi
đã viết sáng kiến “Áp dụng dạy học theo định hướng phát triển năng lực
học sinh vào môn sinh học 6” nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục,
thực hiện được định hướng đổi mới giáo dục theo quan điểm đường lối chỉ đạo
của Nhà nước.
2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến.
- Điều kiện:
+ Mẫu vật thật.
+ Máy tính, máy chiếu.
+ Phiếu học tập.
- Thời gian: Năm học 2016-2017.
- Đối tượng: Các bài liên quan đến kiến thức hình thái, phân loại môn Sinh học
6.
3. Nội dung sáng kiến.
+ Tính mới, tính sáng tạo của sáng kiến:
- Áp dụng phương pháp dạy học mới: Phương pháp bàn tay nặn bột -
phương pháp dạy học đã được sử dụng thành công ở nhiều nước trên thế giới,
đem lại hiệu quả cao trong việc phát triển năng lực học sinh.
- Động viên khích lệ học sinh tham gia các hoạt động học tập tích cực, tự
giác, chủ động. Phát triển năng lực tự học, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực
giao tiếp, năng lực hợp tác, năng lực vận dụng kiến thức lý thuyết vào thực
tiễn, năng lực sáng tạo, năng lực sử dụng công nghệ thông tin, năng lực quan
sát, năng lực thực hành thí nghiệm,... của học sinh.
+ Khả năng áp dụng của sáng kiến:
Sau khi dự lớp tập huấn và nghiên cứu các tài liệu viết về dạy học theo
định hướng phát triển năng lực học sinh, tôi thấy trong số các phương pháp dạy
học theo định hướng phát triển năng lực học sinh thì dạy học theo Phương pháp
bàn tay nặn bột là phương pháp được áp dụng ở các nước phát triển trên thế
giới và có thể vận dụng vào giảng dạy ở Việt Nam. Do cơ sở vật chất của phần
đông các nhà trường ở Việt Nam còn thiếu thốn nên dạy học theo PPBTNB phải
tùy vào từng bài cụ thể để áp dụng. Qua nghiên cứu, tôi thấy những bài liên quan
đến kiến thức hình thái và phân loại môn Sinh học 6 nếu áp dụng PPBTNB sẽ
phát triển được năng lực học sinh. Bởi vậy sáng kiến của tôi dùng để áp dụng
dạy các bài liên quan đến kiến thức hình thái, phân loại môn Sinh học 6.
+ Giá trị, hiệu quả của sáng kiến:
* Đối với học sinh:
Động viên khích lệ học sinh tham gia các hoạt động học tập tích cực, tự
giác, sáng tạo, chủ động. Phát triển năng lực tự học, năng lực hợp tác, năng lực
tư duy, năng lực vận dụng, năng lực sáng tạo của học sinh, góp phần hình
thành lớp người năng động, sáng tạo trong công việc.
* Đối với giáo viên:
Cung cấp một cách ngắn gọn, dễ hiểu cho giáo viên về khái niệm, nội
dung dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh. Giới thiệu cho giáo
viên một trong những phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng
lực học sinh là dạy học theo phương pháp bàn tay nặn bột. Trên cơ sở đó
cung cấp cho giáo viên tư liệu viết về những đặc trưng cơ bản và quy trình dạy
học theo phương pháp bàn tay nặn bột để giáo viên áp dụng vào thức tế giảng
dạy.
Minh họa cho giáo viên bài soạn dạy theo định hướng phát triển năng
lực học sinh bằng phương pháp bàn tay nặn bột. Từ đó giáo viên tham khảo và
có thể vận dụng vào giảng dạy.
4. Khẳng định giá trị, kết quả đạt được của sáng kiến.
- Hệ thống hóa những kiến thức lý thuyết về dạy học theo định hướng
phát triển năng lực học sinh , những kiến thức lý thuyết về PPBTNB
- Hướng dẫn cách áp dụng lý thuyết dạy học theo PPBTNB vào bài dạy
cụ thể ở môn Sinh học 6 nhằm phát triển năng lực của học sinh.
5. Đề xuất kiến nghị để thực hiện áp dụng hoặc mở rộng sáng kiến.
- Cần tổ chức các chuyên đề để tiếp tục triển khai thực nghiệm việc dạy
học theo định hướng phát triển năng lực học sinh (PPBTNB) trên nhiều đối
tượng giáo viên khác nhau ở phạm vi rộng hơn để có thêm những thông tin
phong phú về Phương pháp dạy học “Bàn tay nặn bột” nhằm đánh giá hiệu quả
và tính khả thi của sáng kiến.
- Nhà trường cần phải đầu tư hơn nữa các tài liệu tham khảo, sách
nghiệp vụ, sách chuyên đề.
- Bổ sung đồ dùng, thiết bị dạy học, đặc biệt các thiết bị dạy học hiện đại
để giáo viên khi dạy học đảm bảo thực hiện bài giảng đạt hiệu quả cao.
MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
1.1. Xuất phát từ định hướng đổi mới giáo dục của Nhà nước.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và
học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận
dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một
chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự
học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển
năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa
dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh
ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học”.
1.2. Xuất phát từ vai trò dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh.
- Giúp học sinh tự khám phá những điều chưa biết chứ không phải thụ
động tiếp thu những tri thức được sắp đặt sẵn. Học sinh dưới sự hướng dẫn của
giáo viên nhớ lại kiến thức cũ, phát hiện kiến thức mới, vận dụng sáng tạo kiến
thức đã biết vào thực tiễn.
- Giúp học sinh nâng cao năng lực tự học: biết cách đọc sách giáo khoa và
các tài liệu học tập để thu thập và xử lý thông tin. Thông qua đó rèn cho học
sinh thao tác tư duy như phân tích, tổng hợp, khái quá hóa, … để dần hình
thành và phát triển năng lực sáng tạo của các em.
- Giúp học sinh phát triển năng lực giải quyết vấn đề: phân tích được các
tình huống trong học tập, tìm hiểu thông tin liên quan đến vấn đề, đề xuất được
giải pháp giải quyết vấn đề, tìm tòi nghiên cứu giải quyết vấn đề.
- Giúp học sinh phát triển năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác thông qua các
hoạt động nhóm trong học tập.
- Giúp học sinh phát triển năng lực sử dụng công nghệ thông tin trong học
tập: truy cập mạng Internet để thu thập thông tin, xử lí thông tin…
1.3. Xuất phát từ các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học nhằm
hướng tới những năng lực chung cốt lõi và chuyên biệt của môn học
Để hình thành và phát triển năng lực học sinh, cần sử dụng kết hợp nhiều
phương pháp và hình thức tổ chức dạy học khác nhau, đặc biệt cần tổ chức các
hoạt động học tập gắn liền với thực tiễn để kích thích và hoạt động hóa người
học. Một số phương pháp có nhiều ưu thế trong việc hình thành và phát triển
năng lực học sinh trong dạy học Sinh học thường là dạy học dựa trên tìm tòi,
khám phá khoa học (dạy học khám phá), dạy học theo phương pháp bàn tay
nặn bột, dạy học dự án, dạy học giải quyết vấn đề….
Trong các phương pháp trên thì phương pháp dạy học giải quyết vấn đề
đã và đang được áp dụng rộng rãi. Xong để có thể hòa nhập với nền giáo dục
thế giới và tăng khả năng phát triển năng lực ở học sinh, có thể áp dụng trong
điều kiện cơ sở vật chất ở Việt Nam thì phương pháp Bàn tay nặn bột có tính
khả thi cao đối với giáo dục Việt Nam
* Xuất phát từ những vấn đề trên tôi đã tìm đọc các tư liệu liên quan đến
dạy học theo PPBTNB để áp dụng phương pháp đó vào giảng dạy. Qua thực tế
áp dụng PPBTNB vào môn Sinh học 6 tôi đã khảng định được PPBTNB là
phương pháp dạy học có nhiều ưu thế trong việc hình thành và phát triển năng
lực học sinh. Bởi vậy, tôi xin được hệ thống hóa những kiến thức lý thuyết về
PPBTNB và đưa ra một bài soạn minh họa ở chương III Thân môn Sinh học 6
vào sáng kiến “Áp dụng dạy học theo định hướng phát triển năng lực học
sinh vào môn sinh học 6”
3. Thực trạng của vấn đề “Áp dụng dạy học theo định hướng phát triển
năng lực học sinh vào môn sinh học 6”
3.1. Những thuận lợi và khó khăn
3.1.1. Thuận lợi
- Hiện nay, Bộ GD-ĐT đang thực hiện đổi mới căn bản và toàn diện nền
giáo dục, trong đó đổi mới phương pháp dạy học là một trong các nhiệm vụ
cấp bách
- Chương trình nội dung SGK đã được biên soạn theo theo hướng đổi
mới nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo, phát triển năng lực tự học, năng lực
sáng tạo, năng lực quan sát, năng lực thực hành thí nghiệm, năng lực vận dụng
kiến thức đã học vào giải quyết các tính huống thực tiễn…
- Cơ sở vật chất ngày càng được đầu tư và quan tâm tạo điều kiện thuận
lợi cho việc dạy học.
- Mạng Internet phát triển mạnh, do vậy giáo viên, học sinh có cơ hội mở
mang kiến thức và đặc biệt giúp học sinh phát triển năng lực tự học, năng lực
thu thập thông tin và xử lý thông tin,…
- Sở, Phòng Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức các lớp tập huấn về đổi mới
phương pháp dạy học cho cán bộ quản lý và giáo viên.
3.1.2. Khó khăn
a) Về điều kiện, cơ sở vật chất
- Cơ sở vật chất, thiết bị phục vụ cho dạy và học theo hướng đổi mới
phương pháp nhằm phát huy tính tích cực chủ động của người học mặc dù đã
được trang bị và chú trọng đầu tư, song chưa đáp ứng được hết cho việc đổi
mới phương pháp dạy học. Cụ thể:
Hiện nay, bàn ghế lớp học được bố trí theo dãy, nối tiếp nhau, không thuận
lợi cho việc tổ chức học theo nhóm; phòng học học bộ môn và phòng thí nghiệm
chưa đủ chuẩn để thuận lợi cho việc giảng dạy các bộ môn khoa học.
Trang thiết bị chưa đầy đủ, còn thiếu các phương tiện hỗ trợ hoạt động
báo cáo, thảo luận của học sinh như máy tính, máy chiếu vật thể, máy chiếu
bản trong…; tài liệu bổ trợ cho hoạt động tìm tòi - khám phá ... Dụng cụ thí
nghiệm còn chưa đồng bộ và độ chính xác không cao nên rất khó khi học sinh
tự làm thí nghiệm.
b) Chương trình sách giáo khoa
Hiện nay, cấu trúc, chương trình sách giáo khoa bố trí theo bài, không
theo chủ đề có tính hệ thống; một số kiến thức của bài dạy còn dài dòng và có
nhiều phần chưa phù hợp dạy theo phương pháp BTNB
Học sinh thường lệ thuộc vào nội dung có sẵn trong sách giáo khoa, hạn
chế đến việc tìm tòi, tự bộc lộ quan điểm, ý kiến cá nhân.
c) Về đội ngũ giáo viên
Với phương pháp BTNB, để có thể cung cấp những kiến thức toàn diện
và kỹ năng thực hành mới cho học sinh sẽ mất rất nhiều thời gian, đòi hỏi giáo
viên cần phải có sự chuẩn bị kỹ càng, chu đáo, dự kiến nhiều tình huống cần
giải quyết… Nếu không sẽ ảnh hưởng đến thời lượng của toàn tiết học và các
môn học khác.
Áp dụng phương pháp BTNB, nếu kiến thức khoa học, năng lực giáo
viên hạn chế sẽ bỡ ngỡ, lúng túng khi xử lý tình huống giảng dạy (nhất là tình
huống mở đầu), trong việc trả lời, giải đáp các câu hỏi, thắc mắc của học sinh
nêu ra …
d) Về học sinh
- Số học sinh trên một lớp quá đông nên việc tổ chức học tập theo nhóm
rất khó khăn. Điều này cũng gây khó khăn trong tổ chức các hoạt động thực tế
cho học sinh.
- Chất lượng học sinh còn thấp, khả năng tiếp thu của nhiều học sinh còn
hạn chế, thụ động. Trình độ của học sinh không đồng đều, khó tiếp cận với
phương pháp giảng dạy mới. Một bộ phận học sinh có ý thức học tập chưa tốt,
sự chủ động, tích cực của phần lớn học sinh trong các bài học chưa cao; kĩ
năng phát hiện và giải quyết vấn đề trong học tập còn thấp; kĩ năng thực hành
còn hạn chế,.... Nếu lớp học thụ động, kiến thức yếu thì tình huống đưa ra các
em sẽ không tìm được vấn đề cần đặt ra, không đề xuất được thực nghiệm, sẽ
không dự báo được kết quả thực nghiệm … và tiết dạy theo phương pháp này
không hiệu quả
3.2. Những giải pháp cũ thường thực hiện
- Giải pháp cũ thường thực hiện trong đổi mới phương pháp dạy học:
Giáo viên thường kết hợp giữa phương pháp thuyết trình hoặc phương
pháp vấn đáp tìm tòi với thảo luận nhóm. Nhưng câu hỏi giáo viên đưa ra chủ
yếu dựa vào hướng dẫn ở tài liệu hoặc là những câu hỏi nặng về tái hiện nhắc
lại kiến thức. Giáo viên chưa đầu tư cho việc biên soạn những câu hỏi có khả
năng phát triển năng lực sáng tạo, năng lực vận dụng ở học sinh. Phiếu học tập
dùng để thảo luận nhóm chủ yếu dựa vào tài liệu có sẵn. Giáo viên ít chủ động
biên soạn hoặc nếu có biên soạn thì cũng chưa đề cao đến vận dụng lý thuyết
vào thực tiễn vì thế hiệu quả của phiếu học tập còn hạn chế, chưa phát triển
được năng lực vận dụng. Nhiều giáo viên khi chia nhóm học sinh không quan
tâm đến trình độ nhận thức của các em dẫn đến có những nhóm học sinh tập
trung nhiều em học trung bình và yếu do đó ảnh hưởng đến kết quả thảo luận
nhóm. Việc xử lý kết quả thảo luận nhóm của học sinh ở một số giáo viên còn
lúng túng. Những nguyên nhân trên khiến cho phương pháp thuyết trình hoặc
phương pháp vấn đáp tìm tòi kết hợp với thảo luận nhóm chưa đạt hiệu quả
cao trong vấn đề phát triển năng lực học sinh, do đó việc đáp ứng vấn đề đổi
mới căn bản và toàn diện về giáo dục còn hạn chế.
Vậy làm thế nào để khắc phục những hạn chế của giải pháp cũ trong đổi
mới dạy học, làm thế nào để tăng cường phát triển năng lực học sinh? Qua dự
lớp tập huấn do Phòng giáo dục tổ chức, tôi đã đầu tư thời gian tìm đọc các tài
liệu liên quan đến dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh, trao
đổi với bạn bè đồng nghiệp về những vấn đề liên quan đến dạy học theo định
hướng phát triển năng lực học sinh. Bên cạnh đó tôi đọc kĩ sách giáo khoa,
sách tham khảo để tìm ra giải pháp mới nhằm phát triển năng lực của học sinh.
Cuối cùng với sự nỗ lực của bản thân, sự giúp đỡ của bạn bè đồng nghiệp, tôi
đã tìm ra giải pháp mới khắc phục giải pháp cũ. Giải pháp đó là: Sử dụng
PPBTNB trong dạy học nhằm động viên khích lệ học sinh tham gia các hoạt
động học tập tích cực, tự giác, chủ động hơn, phát triển năng lực tự học, năng
lực giải quyết vấn đề, năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác, năng lực vận dụng
kiến thức lý thuyết vào thực tiễn, năng lực sáng tạo, năng lực sử dụng công
nghệ thông tin, năng lực quan sát, năng lực thực hành thí nghiệm.. của học
sinh. Nâng cao năng lực tự đánh giá và đánh giá của học sinh kết hợp với việc
đánh giá của giáo viên.
Để kiểm tra tính khả thi và hiệu quả của giải pháp, năm học 2016 – 2017
tôi chọn hai lớp: lớp 6A (40 học sinh), lớp 6C (44 học sinh) có lực học tương
đối đồng đều làm lớp thực nghiệm và đối chứng.
Lớp đối chứng 6C: Thực hiện các giải pháp cũ trong dạy học các bài ở
các chương:
Chương II: Rễ: Bài 9: Các loại rễ, các miền của rễ; Bài 12: Biến dạng
của rễ;
Chương III: Thân: Bài 13: Cấu tạo ngoài của thân; Bài 18: Biến dạng
của thân;
Chương IV: Lá: Bài 19: Đặc điểm bên ngoài của lá; Bài25: Biến dạng
của lá.
Để xác định hiệu quả của các giải pháp cũ sau mỗi chương, tôi đều cho
học sinh làm bài kiểm tra khảo sát nhưng không báo trước cho HS chuẩn bị.
Kiến thức trong đề kiểm tra sau mỗi chương là nội dung 2 bài trong mỗi
chương đã nêu ở trên.
Trong đề khảo sát thể hiện rõ 4 cấp độ nhận thức của học sinh: nhận biết,
thông hiểu, vận dụng cấp thấp, vận dụng cấp cao, bám sát với chuẩn kiến thức
kĩ năng của môn học. Số điểm dành cho câu hỏi nhận biết, thông hiểu chiếm tỉ
lệ 60%; số điểm dành cho câu hỏi vận dụng cấp thấp, vận dụng cấp cao chiếm
tỉ lệ 40%. Điểm bài kiểm tra (tính theo thang điểm 10) chia làm 4 loại:
+ Loại Giỏi: Từ 8 điểm trở lên
+ Loại Khá: Từ 6.5 đến < 8 điểm
+ Loại Trung bình: Từ 5 đến < 6.5 điểm
+ Loại Yếu: < 5 điểm.
Kết quả đó được thể hiện qua bảng khảo sát sau đây:
Trung
bình
Giỏi
Khá
SL
Yếu
STT
1
Tên bài
SL %
%
SL %
SL
6
%
Các loại rễ,
các miền của
rễ
8
18,2 15
34,1 15 34,1
13,6
Biến dạng
của rễ
2
3
4
5
6
7
8
6
8
7
15,9 17
38,6 13 29,5
27.2 17 38,6
33.3 12 27,2
27,2 16 36,4
38,6 13 29,5
7
7
6
8
7
15,9
15,9
13,6
18,2
15,9
Cấu tạo ngoài
của thân
18,2 12
13,6 20
18,2 12
15,9 17
Biến dạng
của thân
Đặc điểm bên
ngoài của lá
Biến dạng
của lá
* Nhận xét:
Qua kết quả thể hiện trên bảng khảo sát tôi nhận thấy tỉ lệ các bài kiểm tra
đạt loại khá, giỏi chưa cao tức là mức độ nhận thức đạt ở cấp độ vận dụng cấp
thấp, vận dụng cấp cao của học sinh chưa tốt. Các bài kiểm tra đạt loại yếu (mức
độ nhận thức chỉ ở cấp độ nhận biết) vẫn chiếm tỉ lệ đáng kể. Điều đó chứng tỏ
nếu thực hiện theo giải pháp cũ, học sinh nhớ bài không lâu, khả năng vận dụng
kiến thức của học sinh còn hạn chế, chưa phát huy được khả năng tư duy sáng tạo
của học sinh. Vì vậy chất lượng học tập của học sinh chưa thực sự đạt được yêu
cầu mục tiêu của đổi mới giáo dục theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa
XI.
4. Các giải pháp, biện pháp thực hiện “Áp dụng dạy học theo định hướng
phát triển năng lực học sinh vào môn sinh học 6”
4.1. Hệ thống hóa những cơ sở lý thuyết về dạy học theo định hướng phát
triển năng lực học sinh.
4.1.1. Khái niệm về năng lực
Theo nhiều nguồn tài liệu của các tác giả khác nhau đã đi đến thống nhất
định nghĩa năng lực như sau: “Năng lực là khả năng thực hiện một hoạt động
có ý nghĩa. Khi thực hiện hoạt động này, người ta phải vận dụng kiến thức, kĩ
năng sẵn có, sử dụng các kĩ năng bản thân một cách chủ động và trách nhiệm”.
4.1.2. Khái niệm, nội dung dạy học theo định hướng phát triển năng lực học
sinh
- Dạy học theo định hướng năng lực không chỉ dừng ở hướng tới mục
tiêu dạy học hình thành kiến thức, kĩ năng, thái độ tích cực ở học sinh mà còn
hướng tới mục tiêu xa hơn đó là phát triển khả năng thực hiện các hành động
có ý nghĩa đối với người học.
- Dạy học theo định hướng phát triển năng lực tạo một môi trường, bối
cảnh cụ thể để học sinh được thực hiện các hoạt động vận dụng kiến thức, sử
dụng kĩ năng và thể hiện thái độ của mình.
- Việc dạy học theo định hướng phát triển năng lực được thể hiện trong
các thành tố của quá trình dạy học như sau:
+ Mục tiêu dạy học:
Về kiến thức: Ngoại mục tiêu về nhận biết tái hiện kiến thức cần có
những mục tiêu vận dụng kiến thức trong các tình huống, các nhiệm vụ gắn với
thực tế.
Về kĩ năng: Có thêm những mục tiêu rèn luyện các kĩ năng thực hiện
hoạt động đa dạng.
+ Phương pháp dạy học: Ngoài cách dạy học thuyết trình cung cấp
kiến thức cần tổ chức hoạt động dạy học thông qua trải nghiệm, giải quyết
những nhiệm vụ thực tiễn.
+ Nội dung dạy học: Cần xây dựng các hoạt động, chủ đề, nhiệm vụ
đa dạng gắn với thực tiễn.
+ Kiểm tra, đánh giá: Bản chất đánh giá năng lực cũng phải thông qua
đánh giá khả năng vận dụng kiến thức và kỹ năng thực hiện nhiệm vụ của học
sinh.
* Một số phương pháp có nhiều ưu thế trong việc hình thành và phát
triển năng lực học sinh trong dạy học Sinh học là: Dạy học dựa trên Tìm tòi -
Khám phá (DHKP), dạy học dự án, dạy học theo phương pháp bàn tay nặn bột,
dạy học giải quyết vấn đề,…
Ở Việt Nam dạy học giải quyết vấn đề đã được giáo viên áp dụng rộng
rãi, nhưng dạy học theo phương pháp bàn tay nặn bột là phương pháp mới còn
bỡ ngỡ đối với nhiều giáo viên. Để giáo dục của đất nước phát triển hội nhập
với thế giới thì giáo viên phải mạnh dạn áp dụng phương pháp mới vào giảng
dạy. Xuất phát từ suy nghĩ đó tôi đã áp dụng dạy học môn Sinh học theo
phương pháp bàn tay nặn bột ở các bài có thể áp dụng được để phát triển
năng lực cho học sinh
4.1.3. Dạy học theo phương pháp bàn tay nặn bột
4.1.3.1. Khái quát về phương pháp bàn tay nặn bột.
a) Phương pháp bàn tay nặn bột (PPBTNB): Phương pháp dạy học tích cực do
Giáo sư Georger Charpak (người Pháp) sáng tạo ra và phát triển từ năm
1995 dựa trên cơ sỏ khoa học của sự tìm tòi - nghiên cứu. Đây là PPDH
được tổng hợp của nhiều PPDH tích cực khác nhau.
PPBTNB có thể sử dụng để giảng dạy cho nhiều môn khoa học khác nhau
và đặc biệt thuận lợi với các môn khoa học tự nhiên như Lí, Hóa, Sinh,… từ cấp
tiểu học cho đến THPT bởi vì với phương pháp này HS tự lĩnh hội kiến thức mới
xuất phát từ một sự vật, hiện tượng thực tế gần gũi với các em.
b) Mục tiêu của PPBTNB: Tạo nên tính tò mò, ham muốn khám phá và say
mê khoa học của học sinh. Ngoài việc chú trọng đến kiến thức khoa học,
phương pháp này còn chú ý nhiều đến việc rèn luyện kĩ năng diễn đạt thông
qua ngôn ngữ nói và viết cho HS.
Điểm nổi trội của PPBTNB là rèn cho HS ngay từ bậc tiểu học đã có
cách tư duy của nhà khoa học, cách làm việc của nhà khoa học. Con đường tìm
ra kiến thức của HS cũng tương tự như quá trình tìm ra kiến thức mới của các
nhà khoa học.
c) Đặc trưng của PPBTNB
- Rèn tư duy và phương pháp làm việc của nhà khoa học
- Rèn cho học sinh từng bước làm chủ ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết.
- Tạo thuận lợi cho học sinh bộc lộ và thay đổi quan niệm ban đầu theo
con đường kiến tạo.
- Rèn cho học sinh biết cách sử dụng vở thực hành.
4.1.3.2.Cơ sở khoa học của phương pháp BTNB
4.1.3.2.1. Dạy học khoa học dựa trên tìm tòi nghiên cứu
Dạy học khoa học dựa trên tìm tòi nghiên cứu là một phương pháp dạy
và học khoa học xuất phát từ sự hiểu biết về cách thức học tập của học sinh,
bản chất của nghiên cứu khoa học và sự xác định các kiến thức cũng như kĩ
năng mà học sinh cần nắm vững.
a) Bản chất của nghiên cứu khoa học trong phương pháp BTNB
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "SKKN Áp dụng dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh vào môn Sinh học 6", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- skkn_ap_dung_day_hoc_theo_dinh_huong_phat_trien_nang_luc_hoc.pdf