SKKN Áp dụng dạy học tích cực để rèn luyện kỹ năng thực hành phép nhân cho học sinh Lớp 3
Trong phương pháp tích cực, người học được cuốn hút vào các hoạt động học tập do giáo viên tổ chức và chỉ đạo, thông qua đó tự lực khám phá những điều mình chưa rõ chứ không phải thụ động tiếp thu nhưng tri thức đã được giáo viên sắp đặt.Được đặt vào những tình huống của đời sống thực tế, người học trực tiếp quan sát, thảo luận, làm thí nghiệm, giải quyết vấn đề đặt ra theo cách suy nghĩ của mình, từ đó nắm được kiến thức kỹ năng mới, vừa nắm phương pháp “làm ra” kiến thức, kỹ năng đó không rập theo những khuôn mẫu có sẵn, được bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng tạo.Dạy theo cách này thì giáo viên không chỉ đơn giản truyền đạt tri thức mà còn hướng dẫn hành động.Chương trình dạy học giải pháp giúp cho từng học sinh biết hành động và tích cực tham gia vào các chương trình hành động của cộng đồng.
PHÒNG GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO QUẬN ĐỐNG ĐA
TRƯỜNG TIỂU HỌC CÁT LINH
------------
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ÁP DỤNG DẠY HỌC TÍCH CỰC ĐỂ RÈN LUYỆN KỸ NĂNG THỰC
HÀNH PHÉP NHÂN CHO HỌC SINH LỚP 3
Người viết : KHÁNH THỊ CHIỀU
Hà Nội, năm 2007
1
PHẦN I. MỞ ĐẦU
I.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.Xuất phát từ vị trí và tầm quan trọng của dạy phép nhân trong việc dạy môn Toán
trong tiểu học.
Việc dạy học ở các trường tiểu học nước ta có một quá trình phát triển
lâu.Chương trình môn Toán ở bậc Tiểu học gồm có 5 tuyến kiến thức chính là: Số
đại số, các yếu tố hình học, đo các đại lượng, giải toán.Trong đó số lớn nhất trọng
tâm đóng vai trò “cái trục chính” mà bốn mạch chuyển động chung quanh nó, phụ
thuộc vào nó.Các biện pháp tính, của phép nhân và dãy tính.Trong ba mảng kiến
thức này thì mảng các biện pháp tính là quan trọng nhất, đặc biệt là việc rèn luyện
kỹ năng thực hành phép nhân , chia đóng vai trò hết sức chủ đạo, nó là trọng tâm
của tuyến kiến thức số học, đại số và là hạt nhân của toàn bộ chương trình tiểu học.
Bắt đầu từ năm 2003-2004, bảng nhân 2, 3, 4, 5 chính thức được đưa vào
chương tình Toán lớp hai ở bậc tiểu học.Nói như vậy thấy tầm quan trọng và vai
trò của phép nhân trong môn Toán.Trong các kỳ thi môn Toán của lớp 2, 3, 4, 5
đặc biệt là thi học sinh giỏi bậc tiểu học luôn xuất hiện các bài toán có liên quan
đến phép tính nhân.Vì vậy tính nhân, chính là “ chìa khoá “ và “ cầu nối” giữa toán
học và thực tiễn đời sống.Nó chiếm vị trí rất quan trọng trong chương trình môn
toán lớp 3 và môn toán tiểu học nói chung nhất là về mặt thực hành tính toán.
2.Xuất phát từ nhu cầu đặt ra trong công cuộc đổi mới giáo dục nói chung và đổi
mới dạy học môn toán ở tiểu học nói riêng.
Công cuộc đổi mới kinh tế, xã hội đang diễn ra từng ngày từng giờ trên
khắp đất nước.Nó đòi hỏi phải có những lớp người lao động mới có bản lĩnh, có
năng lực, chủ động sáng tạo, dám nghĩ dám làm, thích ứng được với thực tiễn đời
sống xã hội luôn luôn phát triển.Nhu cầu này làm cho mục tiêu đào tạo của nhà
trường phải được điều chỉnh một cách hợp lý dẫn đến sự thay đổi tất yếu về nội
dung và phương pháp dạy học.
Đặc điểm của phương pháp dạy học cũ là có sự mất cân đối rõ rệt giữa hoạt
động dạy của giáo dục và hoạt động của học sinh.Trong đó:
- Giáo viên thường chỉ truyền đạt, giảng giải các tài liệu đã có sẵn trong
sách giáo khoa, sách giáo viên (hướng dẫn giảng dạy).Vì vậy giáo viên
thường làm việc một cách máy móc và ít quan tâm đến việc phát huy khả
năng sáng tạo của học sinh.
- Học sinh học tập một cách thụ động, chủ yếu chỉ nghe giảng ghi nhớ rồi
làm theo bài mẫu.Do đó học sinh ít có hứng thú học tập, nội dung các
hoạt động học tập thường rất nghèo nàn, đơn điệu, các năng lực vốn có
của học sinh ít có cơ hội phát triển.
- Giáo viên là người duy nhất có quyền đánh giá kết quả học tập của học
sinh. Học sinh ít khi được tự đánh giá mình và đánh giá lẫn nhau.Tiêu
2
chuẩn đánh giá học sinh là kết quả ghi nhớ, tái hiện những điều giáo viên
đã giảng.
Cách dạy học như vậy đang cản trở việc đào tạo những người lao động năng
động, tự tin, linh hoạt, sáng tạo, sẵn sàng với những đổi mới đang diễn ra hàng
ngày. Do đó chúng ta phải có cố gắng đổi mới phương pháp dạy học để nâng cao
chất lượng giáo dục đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước
trong thế kỷ XXI.
3.Xuất phát từ thực trạng việc dạy học môn toán cụ thể là kỹ năng thực hành phép
nhân cho học sinh lớp 3 trong nhà trường Tiểu học hiện nay.
Trong chương trình môn học ở bậc tiểu học, môn toán chiếm số giờ rất lớn.
Bốn phép tính cộng, trừ, nhân , chia được sử dụng hầu hết vào các khâu trong quá
trình dạy học toán.Tuy vậy, phép nhân, phép chia là khái niệm trừu tượng.Vì vậy
việc nâng cao hiệu quả rèn luyện kỹ năng thực hành phép nhân, phép chia là một
vấn đề cấp bách và thường xuyên.
Một trong những mục tiêu của môn Toán của bậc tiểu học là hình thành các
kỹ năng thực hành tính toán.Bởi vậy, ngay từ lớp 2, học sinh đã được làm quen với
bảng nhân với 2, 3, 4, 5 trong phạm vi 100.Sang lớp ba, học sinh học bảng nhân
với 6, 7, 8, 9 và nhân chia ngoài bảng trong phạm vi1.000.000 (với số có một chữ
số).Việc rèn luyện các kỹ năng thực hành phép nhân giúp cho học sinh nắm chắc
một số tính chất cơ bản của các phép tính viết, thứ tự thực hiện các phép tính trong
các biểu thức có nhiều phép tính , mối quan hệ giữa các phép tính (đặc biệt giữa
phép cộng và phép nhân, phép nhân và phép chia).Đồng thời dạy học phép nhân ,
phép chia tên tập hợp số tự nhiên nhằm củng cố các kiến thức có liên quan đến
môn toán như đại lượng và phép đi đại lượng các yếu tố hình học, giải toán. Ngoài
ra rèn kỹ năng thực hành phép nhân, phép chia con góp phần trọng yếu trong việc
phát triển năng lực tư duy, năng lực thực hành, đặc biệt là khả năng phân tích, suy
luận lôgíc và phẩm chất không thể thiếu được của người lao động mới.
Xuất phát từ những lý do thực tế trên, qua nghiên cứu quá trình dạy học môn
toán lớp 3 ở bậc tiểu học, là một giáo viên đang trực tiếp giảng dạy, kết hợp với
những hiểu biết đã có và những điều mới mẻ lĩnh hội được từ các bại giảng về
“phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học” của các thầy giáo trường Đại học Sư
Phạm, trong khuôn khổ cho phép của một đề tài khoa học, tôi quyết định chọn đề
tài:
“áp dụng dạy học tích cực để rèn kỹ năng thực hành phép nhân cho học
sinh lớp 3”
II.MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Đề tài nhằm:
3
- Tìm hiểu những vấn đề lí luận về đổi mới dạy học tích cực nói chung và
dạy học tích cực trong môn Toán nói riêng.
- Vận dụng dạy học tích cực để thiết kế bài dạy để rèn luyện kỹ năng thực
hành phép nhân góp phần nâng cao chất lượng dạy và học Toán Tiểu học
nói chung và lớp 3 nói riêng.
- Đề tài này biểu hiện kết quả tự học, tự rèn luyện nâng cao tay nghề của
bản thân, tôi rất mong nhận được sự góp ý của các bạn đồng nghiệp, quý
thầy cô của trường Đại học Sư phạm để đổi mới , nâng cao hiệu quả dạy
học rèn luyện kỹ năng thực hành phép nhân, phép chia cho học sinh lớp
3.
III.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Đọc các tài liệu giáo trình có liên quan
đến vấn đề nghiên cứu.Tham khảo sáng kiến, kinh nghiệm của đồng
nghiệp.
- Phương pháp quan sát: Thông qua dự giờ.
- Phương pháp điều tra: Tìm hiểu thực trạng việc dạy phép nhân lớp
3(chương trình Toán 2000).
- Phương pháp thực nghiệm: Kiểm nghiệm tính khả thi của đề tài và tác
dụng của những ý kiến đề xuất về rèn kỹ năng thực hành phép nhân,
phép chia cho học sinh lớp 3 theo hướng phát huy tính tích cực của học
sinh.
IV.TÓM TẮT NỘI DUNG CỦA ĐỀ TÀI
Ngoài phần mở đầu, phần thực nghiệm và phần kết luận, đề tài gồm có các
nội dung chính sau đây:
chương: Trong chương trình này chúng tôi xin trình bày những vấn đề
chung về dạy học tích cực.
Chương II: Đây là chương chúng tôi xin trình bày về nội dung và phương
pháp dạy học tích cực để rèn kỹ năng thực hành phép nhân cho học sinh lớp 3.
Chương III: Chúng tôi xin nói về thực trạng dạy học phép nhân trong nhà
trường Tiểu học hiện nay.
Chương IV: Chúng tôi xin phép được đề xuất một số ý kiến của bản thân và
các đồng nghiệp để góp phần nâng cao hiệu quả của giờ dạy Toán nói chung và
việc dạy học phép nhân cho học sinh lớp 3 nói riêng.
V.MỘT SỐ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Trên cơ sở nghiên cứu tài liệu, điều tra, quan sát tình hình thực tế và trực
tiếp giảng dạy phép nhân cho học sinh lớp 3 chúng tôi đã nhận được kết quả như
sau:
- Tìm hiểu những nội dung và phương pháp giảng dạy học cho học sinh
lớp 3.
4
- Tìm hiểu, phân tích, tổng hợp chương trình sách giáo khoa Toán 3 và
phân loại các bài toán có liên quan đến phép nhân ở lớp 3 thành những
dạng cơ bản.
- Tìm hiểu một số vấn đề cơ bản về dạy học tích cực để dạy học các nội
dung trên.
- Từ những kết quả ở phần trên, chúng tôi thiết kế thực nghiệm dạy học 2
tiết học và thu được kết quả đáng khích lệ.
VI.TRIỂN VỌNG NGHIÊN CỨU SAU ĐỀ TÀI
Rèn kỹ năng thực hành phép nhân cho học sinh lớp 3 nói riêng, dạy học
Toán ở tiểu học nói chung theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh, đáp ứng
được mục tiêu của giáo dục hiện đại.
PHẦN II: NỘI DUNG ĐỀ TÀI
5
CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DẠY HỌC TÍCH CỰC
I.Dạy học tích cực là gì ?
Tính tích cực là một phẩm chất vốn có của con người trong đời sống xã
hội.Nhờ có tính tích cực mà con người đã lao động sản xuất sáng tạo ra nhiều của
cải vật chất cần thiết cho sự tồn tại, phát triển của xã hội, sáng tạo ra nền văn hoá,
cải tạo môi trường, chinh phục thiên nhiên, cải tạo xã hội.
Bởi vậy hình thành và phát triển tính tích cực xã hội là một trong các nhiệm
vụ chủ yếu của giáo dục nhằm đào tạo những con người năng động thích ứng và
góp phần phát triển cộng đồng.Tính tích cực được xem là một điều kiện , đồng thời
là một kết quả của sự phát triển nhân cách trong quá trình giáo dục.
1.Tính tích cực của học sinh trong học tập:
Tính tích cực của con người được biểu hiện trong hoạt động, đặc biệt trong
những hoạt động chủ động của chủ thể. Học tập là hoạt động chủ đạo ở lứa tuổi đi
học.Tính tích cực trong hoạt động học tập tính tích cực nhận thức, đặc trưng ở khát
vọng hiểu biết, cố gắng trí tuệ và nghị lực cao trong quá trình chiếm lĩnh tri thức.
Khác với quá trình nhận thức trong nghiên cứu khoa học, quá trình nhận
thức trong học tập không nhằm phát hiện những điều loài người chưa biết mà
nhằm lĩnh hội những tri thức mà loài người đã tích luỹ được.Tuy nhiên, trong học
tập, học sinh cũng phải khám phá ra những gì đã nắm được qua hoạt động chủ
động, nỗ lực của chính mình.Đó là chưa nói lên tới một trình độ nhất định sự học
tập tích cực sẽ mang tính nghiên cứu khoa học và người học cũng làm ra những tri
thức mới cho khoa học.
Tính tích cực nhận thức trong hoạt động học tập liên quan trước hết với
động cơ học tập. Động cơ có đúng đắn tạo ra hứng thú.Hứng thú là tiền đề của tự
giác. Hứng thú và tự giác là 2 yếu tố tạo nên tính tích cực.Tính tích cực sản sinh tư
duy độc lập suy nghĩ, độc lập suy nghĩ là mầm mống của sáng tạo. Ngược lại
phong cách học tập tích cực độc lập sáng tạo sẽ phát triển tự giác, hứng thú, bồi
dưỡng động cơ học tập.
Tính tích cực học tập biểu hiện ở những dấu hiệu hăng hái trả lời các câu hỏi
của giáo viên, bổ sung các câu trả lời của bạn, thích phát biểu ý kiến của mình
trước vấn đề nêu ra, hay nêu thắc mắc, đòi hỏi giải thích cặn kẽ những vấn đề
chưa rõ, không chủ động vận dụng kiến thức kỹ năng đã học, kiên trì hoàn thành
các bài tập, không nản trước những tình huống khó khăn.
Tính tích cực học tập đạt những cấp độ từ thấp lên cao như:
- Bắt chước: gắng sức làm theo các mẫu hoạt động của thầy, của bạn...
- Tìm tòi: Độc lập giải quyết các vấn đề nêu ra, tìm kiếm những cách giải
quyết khác nhau về một số vấn đề...
6
- Sáng tạo: Tìm ra cách giải quyết mới độc đáo, hữu hiệu.
2.Độc lập với tính tích cực là tính thụ động:
Tính thụ động học tập của học sinh được biểu hiện ở chỗ:
- Học sinh chủ yếu ít nghe giảng, ghi nhớ rồi làm bài theo mẫu.
- Học sinh ít hứng thú học tập, không thích phát biểu ý kiến.
- Trong lớp học sinh ít chú ý vào vấn đề đang học, không kiên trì nên
không hoàn thành các bài tập. Khi gặp khó khăn học sinh dễ chán nản,
buông xuôi. Học sinh không tự giác đánh giá kết quả học tập của mình và
của bạn.
Do cách học như vậy nên học sinh thiếu năng động, tự tin , làm việc máy
móc, không thể thích ứng được với những đổi mới đang diễn ra hàng ngày.
3.Những dấu hiệu đặc trưng của phương pháp dạy học tích cực:
a)Dạy và học thông qua các tổ chức các hoạt động học tập của học sinh:
Trong phương pháp tích cực, người học được cuốn hút vào các hoạt động
học tập do giáo viên tổ chức và chỉ đạo, thông qua đó tự lực khám phá những điều
mình chưa rõ chứ không phải thụ động tiếp thu nhưng tri thức đã được giáo viên
sắp đặt.Được đặt vào những tình huống của đời sống thực tế, người học trực tiếp
quan sát, thảo luận, làm thí nghiệm, giải quyết vấn đề đặt ra theo cách suy nghĩ của
mình, từ đó nắm được kiến thức kỹ năng mới, vừa nắm phương pháp “làm ra” kiến
thức, kỹ năng đó không rập theo những khuôn mẫu có sẵn, được bộc lộ và phát huy
tiềm năng sáng tạo.Dạy theo cách này thì giáo viên không chỉ đơn giản truyền đạt
tri thức mà còn hướng dẫn hành động.Chương trình dạy học giải pháp giúp cho
từng học sinh biết hành động và tích cực tham gia vào các chương trình hành động
của cộng đồng.
b)Dạy và học chú trọng phương pháp rèn luyện tự dạy và học: Phương pháp
tích cực xem việc rèn luyện phương pháp học tập cho học sinh không chỉ là một
biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là một mục tiêu dạy học.
Trong xã hội hiện đại đang biến đổi nhanh với sự bùng nổ thông tin, khoa
học, kỹ thuật, công nghệ phát triển như vũ bão thì không thể nhồi nhét vào đầu óc
trẻ khối lượng lớn kiến thức ngày càng nhiều.Phải quan tâm dạy cho trẻ phương
pháp học ngay từ bậc Tiểu học và càng lên bậc học cao hơn càng phải được chú
trọng.
Trong các phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học.Nếu rèn luyện
cho người học có được phương pháp , kỹ năng, thói quen, ý chí tự học thì tạo ra
cho họ lòng tham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi người, kết quả học tập sẽ
được nhân lên gấp bội.Vì vậy, ngày nay người ta nhấn mạnh mặt hoạt động học
trong quá trình dạy, nỗ lực tạo ra sự chuyển biến từ học tập bị động sang học tập
chủ động, đặt vấn đề phát triển tự học ngay trong trường phổ thông, không chỉ tự
học ở nhà sau bài lên lớp mà tự học cả trong tiết học có sự hướng dẫn của giáo
viên.
7
c)Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác:
Trong một lớp học mà trình độ kiến thức tư duy của học sinh không thể
đồng đều tuyệt đối thì khi áp dụng phương pháp tích cực buộc phải chấp nhận sự
phân hoá về trình độ, tiến độ hoàn thành nhiệm vụ học tập, nhất là khi bài học
được thiết kế thành một chuỗi công tác độc lập.
Áp dụng dạy học tích cực ở trình độ cao thì sự phân hoá ngày càng lớn.Việc
sử dụng các công nghệ thông tin trong nhà trường sẽ đáp ứng yêu cầu cá thể học
tập theo nhu cầu và khả năng của mỗi học sinh.
Tuy nhiên, trong học tập, không phải mọi tri thức, kỹ năng, thái độ đều được
hình thành bằng những hoạt động độc lập cá nhân.Lớp học là môi trường giao tiếp
giữa thầy và trò, tạo nên mối quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trên con đường
chiếm lĩnh nội dung học tập.Thông qua thảo luận , tranh luận trong tập thể, ý kiến
mỗi cá nhân được bộc lộ, khẳng định hay bác bỏ, qua đó người học nâng mình lên
một trình độ mới.Bài học vận dụng được hiểu biết và kinh nghiệm của mỗi học
sinh và của cả lớp chứ không phải dựa trên vốn hiểu biết và kinh nghiệm của thầy
giáo.
Trong nhà trường, phương pháp học tập hợp tác được tổ chức ở cấp cao
nhóm, tổ, lớp hoặc nhà trường.Được sử dụng phổ biến trong dạy học là hoạt động
hợp tác trong nhóm 4 đến 6 người. Học tập hợp tác làm tăng hiệu quả học tập nhất
là lúc giải quyết những vấn đề gay cấn, lúc xuất hiện thực sự nhu cầu phối hợp
giữa các cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ chung.Trong hoạt động theo nhóm nhỏ
sẽ không thể có hiện tượng ỷ lại; tính cách năng lực của mỗi thành viên được bộc
lộ, uốn nắn , phát triển tình bạn, ý thức tổ chức , tinh thần tương trợ.Mô hình hợp
tác trong xã hội đưa vào đời sống học đường sẽ làm cho các thành viên quen dần
với sự phân công hợp tác trong lao động xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường đã xuất hiện nhu cầu hợp tác xuyên quốc gia,
liên quốc gia, năng lực hợp tác phải trở thành một mục tiêu giáo dục mà nhà
trường cần phải chuẩn bị cho học sinh.
d)Kết hợp đánh giá của thầy và sự đánh giá của trò:
Trong dạy học đánh giá học sinh không chỉ nhằm mục đích nhận định thực
trạng và điều chỉnh hoạt động của học sinh mà còn đồng thời tạo điều kiện nhận
định thực trạng và điều chỉnh hoạt động dạy của thầy.
Trước đây giáo viên giữ độc quyền đánh giá học sinh.Trong phương pháp
tích cực, giáo viên phải hướng dẫn cho học sinh phát triển kỹ năng tự tạo điều kiện
thuận lợi để học sinh tham gia đánh giá lẫn nhau.Tự đánh giá đúng và điều chỉnh
hoạt động kịp thời là năng lực rất cần cho sự thành đạt trong cuộc sống mà nhà
trường phải trang bị cho học sinh.
Theo hướng phát triển các phương pháp tích cực để đào tạo những con
người năng động sớm thích nghi với đời sống xã hội, thì việc kiểm tra, đánh giá
không thể chỉ dừng lại ở yêu cầu tái hiện các kiến thức, lặp lại các kỹ năng đã học
8
mà phải khuyến khích trí thông minh, óc sáng tạo trong giải quyết các vấn đề thực
tế.
Với sự trợ giúp của các thiết bị kỹ thuật, kiểm tra, đánh giá sẽ không còn là
một công việc nặng nhọc đối với giáo viên, mà lại cho nhiều thông tin kịp thời để
linh hoạt điều chỉnh hoạt động dạy, chỉ đạo hoạt động học.
Từ dạy và dạy thụ động sang dạy và học tích cực, giáo viên không còn đóng
vai trò đơn thuần là người truyền đạt kiến thức mà trở thành người thiết kế, tổ
chức, hướng dẫn hoạt động độc lập theo nhóm nhỏ để học sinh tự lực chiếm lĩnh
nội dung học tập, chủ động đạt các mục tiêu kiến thức, kỹ năng , thái độ theo yêu
cầu của chương trình.Trên lớp, học sinh hoạt động là chính, giáo viên có vẻ nhàn
nhã.Trước đó, khi soạn giáo án giáo viên đã phải đầu tư công sức thời gian rất
nhiều so với kiểu dạy và học thụ động mới có thể tổ chức, hướng dẫn các hoạt
động của học sinh mà nhiều khi diễn biến bên ngoài tầm dự kiến của giáo viên.
II.CÁC HÌNH THỨC TỔ CHỨC DẠY HỌC THƯỜNG ĐƯỢC VÂN DỤNG
TRONG DẠY HỌC TÍCH CỰC
1.Dạy học theo nhóm nhỏ:
a)Ưu điểm của cách dạy học theo nhóm
- Góp phần rèn luyện tinh thần tự chủ của học sinh: Một số hoạt động có
thể giao cho học sinh tự làm, giáo viên không cần can thiệp trực tiếp vào.
- Tạo ra cơ hội để học sinh hoà nhập cộng đồng. Học sinh tập lắng nghe ý
kiến của người khác, tập lắng nghe ý kiến của chính mình.
- Tạo ra cơ hội để học sinh nâng cao năng lực hợp tác, học sinh tự xác định
trách nhiệm cá nhân đối với công việc chung của nhóm, nhận xét đánh
giá ý kiến của bạn điều chỉnh suy nghĩ của mình.
- Tạo điều kiện để học sinh phát huy hết khả năng của mình theo hướng
phân hoá trong dạy học.
b)Cấu tạo của một tiết học theo nhóm như sau:
+ Làm việc chung cả lớp:
- Nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ nhận thức.
- Tổ chức các nhóm: chia thành từng nhóm nhỏ(4-6 học sinh)
- Giao nhiệm vụ: giáo viên giao việc cho mỗi nhóm và nhóm trưởng, cần
nói rõ yêu cầu về nội dung công việc và thời gian thực hiện.
+ Làm việc theo nhóm:
- Phân công trong nhóm: Mỗi nhóm bầu ra một nhóm trưởng, ngoài ra có
thể bầu thư kí (nếu cần).
- Các nhóm làm việc: Nhóm trưởng điều khiển nhóm hoạt động , mỗi
thành viên trong nhóm đều phải hoạt động, không được ỷ lại vào nhóm
trưởng và các thành viên khác trong nhóm, cần làm việc, suy nghĩ độc lập
trước khi trao đổi, giúp đỡ lẫn nhau, giáo viên theo dõi giúp đỡ các nhóm
trưởng và giải quyết vướng mắc của các nhóm nếu có.
9
- Cử đại diện(hoặc phân công) trình bày kết quả làm việc theo nhóm.
+ Tổng kết trước lớp:
- Các nhóm lần lượt báo cáo kết quả
- Thảo luận chung
- Giáo viên tổng kết, đặt vấn đề cho bài tiếp theo, hoặc vấn đề tiếp theo
trong bài.
c)Một số cách chia nhóm
Nhìn sơ bộ có thể chia nhóm theo cách ngẫu nhiên hoặc có chủ định, có thể
giao cùng một nhiệm vụ cho các nhóm hoặc giao nhiệm vụ khác nhau cho mỗi
nhóm.
Xét theo các tiêu chí chia nhóm này, trong tiết học Toán ở Tiểu học có thể
có một số cách chia nhóm như sau:
- Chia ngẫu nhiên: chia ngẫu nhiên thường được tiến hành khi không cần
sự phân biệt giữa các đối tượng học sinh, mọi học sinh đều phải hoạt
động để cùng giải quyết vấn đề, cùng chiếm lĩnh tri thức, nhiệm vụ được
giao khác nhau không nhiều về nội dung, ít có sự chênh lệch về độ khó,
cùng chung nhu cầu.Để không tốn thời gian vào việc chia nhóm theo tổ,
chia theo bàn, có thể chia ngầu nhiên “bằng đếm vòng tròn”.
Chẳng hạn muốn chia lớp thành bốn nhóm: Ta cho học sinh lần lượt đếm 1,
2, 3, 4 rồi lại đếm 1, 2, 3 ,4 ... lặp đi lặp lại cho đến học sinh cuối cùng.Sau đó xác
định 4 nhóm là tất cả học sinh mang số 1, nhóm 2 là tất cả học sinh mang số 2,
nhóm 3 là tất cả học sinh mang số 3, nhóm 4 là tất cả học sinh mang số 4.
+ Chia thành các nhóm cùng trình độ:
- Chia thành các nhóm có cùng trình độ khi cần có sự phân hoá về mức độ
khó-dễ của nội dung bài học, bài tập cho từng đối tượng.
- Thường chia thành 4 nhóm: Nhóm gồm các học sinh giỏi, nhóm gồm các
học sinh khá, nhóm gồm các học sinh trung bình, nhóm gồm các học sinh
yếu.
- Nếu sự chênh lệch về trình độ học tập giữa các nhóm là quá cao, chẳng
hạn có sự khác biệt về trình độ giữa lớp này với lớp khác, khi đó sự phân
chia nhóm này trở thành sự chia nhóm trong một lớp ghép.Lớp ghép là
hình thức tổ chức dạy học trong đó một giáo viên cùng một lúc dạy nhiều
nhóm học sinh thuộc nhiều trình độ khác nhau trong cùng một lớp học.
- Cần thận trọng khi chia thành các nhóm có cùng trình độ.Giáo viên cần
thực sự nắm bắt trình độ của học sinh trong lớp để không chia sai, cần
chú ý rằng trình độ có thể thay đổi theo thời gian.Sự chia sai gây ra phản
tác dụng, chẳng hạn cho học sinh khá vào nhóm yếu ỷ lại không làm
việc.Cần tránh tâm lý tự ti trong nhóm học sinh yếu hay tâm lý tự kiêu
trong nhóm học sinh giỏi.Khi chưa tự tin về đánh giá của mình, giáo viên
10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "SKKN Áp dụng dạy học tích cực để rèn luyện kỹ năng thực hành phép nhân cho học sinh Lớp 3", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- skkn_ap_dung_day_hoc_tich_cuc_de_ren_luyen_ky_nang_thuc_hanh.doc