SKKN Đổi mới cách tiếp cận thơ Đường trong chương trình Ngữ Văn 7 bậc THCS
Trong khi đó ở các trường THCS - chúng tôi những người giáo viên Ngữ văn thực hiện giảng dạy theo phân phối chương trình bao gồm cả văn học Việt Nam lẫn văn học nước ngoài, mà đặc biệt là thơ Đường, vì vậy sẽ còn nhiều lúng túng khi giảng dạy cho học sinh. Hàng rào ngôn ngữ đã là một trở ngại. Bên cạnh đó, chương trình Ngữ văn THCS trong những năm gần đây có nhiều đổi mới qua đợt cải cách giáo dục, phân môn Văn học có nhiều bài khó, kiến thức mới mẻ nhưng chỉ dạy trong một tiết, thậm chí hai bài dạy chỉ trong một tiết... Bởi vậy, để học sinh nắm được những kiến thức, kĩ năng cơ bản theo chuẩn kiến thức - kĩ năng là một điều khó khăn.
PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Thơ Đường là thành tựu tiêu biểu nhất của văn học Trung Quốc. Mọi phương diện của
nó đều đạt đến trình độ cao của văn học . Thi pháp thơ Đường tiêu biểu cho thi pháp thơ
cổ điển của Trung Quốc. Do đó nó rất đa dạng, phong phú, phức tạp và sâu sắc. Vì vậy
hiểu được nó một cách thấu đáo là một việc khó chưa nói đến việc giảng dạy như thế nào
để học sinh cảm thụ được. Để cảm thụ và truyền đạt hết cái hay, cái đẹp của thơ Đường là
một điều khó. Vì vậy, qua sáng kiến này, tôi xin trình bày một vài suy nghĩ của cá nhân
về “Đổi mới cách tiếp cận thơ Đường trong chương trình Ngữ văn 7 bậc THCS”.
1. Cơ sở lý luận:
Bộ phận văn học nước ngoài nói chung và thơ Đường nói riêng ở trường THCS là một
mảng khó dạy đối với giáo viên. Ở trường Đại học, việc giảng dạy được chuyên môn hoá
cao độ, mỗi người chỉ tập trung nghiên cứu một bộ phận văn học: văn học nước ngoài, văn
học Việt Nam,… thậm chí là một giai đoạn của bộ phận văn học đó nên có điều kiện đi
sâu nắm bắt được nội dung phương pháp giảng dạy.
Trong khi đó ở các trường THCS - chúng tôi những người giáo viên Ngữ văn thực hiện
giảng dạy theo phân phối chương trình bao gồm cả văn học Việt Nam lẫn văn học nước
ngoài, mà đặc biệt là thơ Đường, vì vậy sẽ còn nhiều lúng túng khi giảng dạy cho học
sinh. Hàng rào ngôn ngữ đã là một trở ngại. Bên cạnh đó, chương trình Ngữ văn THCS
trong những năm gần đây có nhiều đổi mới qua đợt cải cách giáo dục, phân môn Văn học
có nhiều bài khó, kiến thức mới mẻ nhưng chỉ dạy trong một tiết, thậm chí hai bài dạy chỉ
trong một tiết... Bởi vậy, để học sinh nắm được những kiến thức, kĩ năng cơ bản theo
chuẩn kiến thức - kĩ năng là một điều khó khăn.
Trước tình hình ấy, để khắc phục những khó khăn đã nêu trên và đáp ứng yêu cầu
giảng dạy, giáo viên phải tìm hiểu bổ sung thêm kiến thức từ các sách nghiên cứu, đổi mới
1
phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra, đánh giá, đề xuất nhứng sáng kiến hay, kinh
nghiệm quý, mạnh dạn thể nghiệm các chuyên đề để cùng nhau thống nhất đưa ra những
phương pháp dạy học hiệu quả, đồng thời đi sâu vào bài giảng để soạn giáo án và giảng
dạy hướng dẫn học sinh học tập được tốt hơn.
2. Cơ sở thực tiễn:
Thơ Đường là thành tựu rực rỡ nhất cuả văn học đời Đường (từ thế kỷ VII đến thế kỷ
X), là một trong những thành tựu tiêu biểu của thơ cổ điển Trung Quốc, đồng thời là của
nhân loại. Đối với lịch sử văn học, thơ Đường ra đời trước nền văn học trung đại Việt
Nam gần 3 thế kỷ. Đối với bạn đọc Việt Nam, nhất là học sinh THCS, thơ Đường vừa là
sản phẩm tinh thần, vừa xa về khoảng cách thời gian, vừa xưa về mặt ngôn từ…Nhưng
học thơ Đưòng không phải chỉ chiêm ngưỡng các sản phẩm “cổ vật” mà chúng ta vẫn hiểu
được tiếng nói của người xưa và vẫn rung cảm trước những tâm hồn cao đẹp.
Việc đưa thơ Đường vào chương trình dạy học ở trường phổ thông cơ sở không phải
là vấn đề mới lạ với chúng ta Sách giáo khoa Ngữ văn chương trình giáo dục phổ thông đã
đưa vào chương trình một lượng không nhiều những tác phẩm thơ Đường tiêu biểu, song
tiếp nhận thơ Đường đối với lứa tuổi trung học cơ sở, nhất là đối với học sinh lớp 7 là điều
không hề đơn giản. Bởi thơ Đường vốn rất hàm súc, nói ít gợi, “ý tại ngôn ngoại”, vừa có
tính ước lệ, cổ kính, trang nghiêm, vừa có tính chặt chẽ niêm luật của thể loại. Chính vì
vậy người giáo viên muốn dạy một tiết thơ Đường thành công cần phải có kiến thức chắc
chắn, một sự am hiểu sâu sắc, đặc biệt là một phương pháp giảng dạy phù hợp để giúp các
em cảm nhận được thơ Đường - một thành tựu của thơ ca nhân loại.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
- Giúp cho học sinh có phương pháp học tác phẩm thơ Đường có kết quả.
2
- Giúp học sinh vừa tiếp cận được với ý nghĩa sâu sắc của từng bài thơ, vừa bước
đầu nắm bắt được nét nghệ thuật tiêu biểu của bài thơ Đường ( ngôn từ, tiểu đối,
niêm, luật…)
- Tạo hứng thú học tập cho học sinh.
III. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
- Khách thể: Học sinh khối 7
2. Phạm vi nghiên cứu:
Chương trình Ngữ văn khối lớp 7
3. Thời gian nghiên cứu:
Từ tháng 9/2011 đến tháng 1/2013
IV. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Trong quá trình dạy môn Ngữ Văn lớp 7 tôi đã dần từng bước tìm ra cách tổ chức
hoạt động nhận thức, tìm hiểu thể loại, nội dung và nghệ thuật của tác phẩm thơ
đường để học sinh tiếp thu bài giảng tốt hơn.
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp dự giờ thăm lớp
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh...
3
PHẦN NỘI DUNG
I.
ĐẶC ĐIỂM CỦA THƠ ĐƯỜNG
khác nó theo đúng biện chứng nghệ thuật. Điều này có nguồn gốc sâu xa là sự phát triển
đến độ chín muồi của tư duy Trung Quốc ở thời đại hoàng kim của xã hội phong kiến (nhà
Đường). Ở đó có sự hội nhập của ba dòng tư tưởng, ba kiểu tư duy tiêu biểu của phương
điểm của ba dòng tư tưởng: tính thực tiễn và duy lý của Nho gia, tính chất huyền diệu, vô
vi của Đạo gia, tính chất từ bi và siêu thế của Phật giáo; đồng thời nó cũng chế ước lẫn
nhau, không có một kiểu tư duy nào độc chiếm ưu thế (mặc dù Nho được ủng hộ bởi triều
đình), khiến cho tư duy Trung Quốc thời này đã đạt được một sự quân bình. Nó hướng tới
cái cao siêu nhưng không hề viển vông, nó hợp lý và thực tiễn nhưng không dung tục tầm
thường; Nó tìm được sự dung hoà trong những quan hệ thống nhất, tương giao để đạt đến
sự hoà diệu. Vì thế nó “bất bình” khi sự hoà diệu bị phá vỡ và ứng xử bằng cách vạch
trần, tố cáo những quan hệ đối lập, bất công trong xã hội.
Đặc trưng mỹ học của thơ Đường trước hết biểu hiện ở tính hàm súc, ít lời nhiều ý,
ý ở ngoài lời. Kết cấu thơ Đường luật hết sức chặt chẽ, mỗi bài thơ giống như một bài toán
giải đáp một vấn đề xã hội bằng hình tượng nghệ thuật. Thơ Đường luật đúc kết những
kinh nghiệm quá khứ nâng lên thành luật bằng trắc đối xứng. Đối xứng chính là mâu
thuẫn thống nhất trong âm thanh, đối xứng càng cao, hài hòa càng lớn.
Nhìn vào công thức một bài thơ Đường, ta sẽ thấy ngay dáng vẻ tiết kiệm của nó:
bài ngũ ngôn tuyệt cú chỉ có 20 chữ, bài thất ngôn tứ tuyệt nhiều hơn cũng chỉ có 28 chữ
mà thôi. Một bài thơ năm chữ tuyệt cú vẻn vẹn chỉ có hai mươi chữ, nhưng càng ít chữ,
càng phải cân nhắc cho nên từ ngữ ở thơ Đường luật phần lớn được sử dụng rất đắt. Đặc
điểm cấu tứ cũng góp phần làm cho thơ Đường thêm súc tích, cô đọng. Các tác giả thơ
4
Đường thường ít khi nói hết, nói trực tiếp ý tình của mình mà chỉ dựng lên hàng loạt mối
quan hệ để cho độc giả tự luận ra dụng ý của tác giả từ những mối quan hệ đó.
Những nhà thơ Đường sử dụng đề tài hết sức rộng rãi, đề tài xã hội, thiên nhiên,
lịch sử và cá nhân, đề tài về chiến tranh, đề tài về cuộc sống của những con người trong xã
hội. Ngòi bút thi nhân đã lên sâu vào tất cả mọi nơi, xung phá và chốn cung đình u ám
cũng như vào giữa quần chúng nhân dân.
II.
NHỮNG CĂN CỨ ĐỂ TIẾP CẬN THƠ ĐƯỜNG
Có một điều rất thú vị khi khảo sát các bài thơ Đường được đưa vào chương
trình Ngữ văn 7- THCS hiện hành đó là trong số năm bài thơ được đưa vào chương
trình thì có đến bốn bài là thể tuyệt cú- dù đây không phải là thể thơ tiêu biểu của
Đường thi. Có thể người biên soạn đã quan tâm tới hứng thú tiếp nhận của học sinh
phổ thông. Chúng thích những bài thơ ngắn mà lại kết tinh những giá trị độc đáo của
thơ ca cổ. Vẫn khơi gợi được những rung cảm tinh tế, những khoảnh khắc thăng hoa
của hồn người, vẫn thỏa mãn nhu cầu thưởng thức văn chương mà lại phù hợp với
nhịp sống khẩn trương của thời hiện đại.
Trong thực tế giảng dạy và học tập, cả giáo viên và học sinh đều bị ám ảnh bởi
“thơ Đường khó” đúng là có nguyên do của nó: Thơ Đường cách xa chúng ta cả về
không gian, thời gian và tư duy nghệ thuật. Vả lại, tâm lí tuổi trẻ ngày nay rất nôn
nóng khó có thể tĩnh tâm để cảm nhận được những rung động tế vi của tâm hồn như
cảm xúc trước một ánh tà dương, một cánh hoa rơi chẳng hạn. Chưa kể đến rào cản
về văn hóa, về sự trải nghiệm cuộc sống đủ cho tâm hồn có sự phong phú để cảm
nhận sự hàm súc, tinh túy của thơ Đường. Tuy nhiên không phải không có cách để
hiểu bài thơ.
Tất nhiên để hiểu một bài thơ Đường có nhiều cách. Sau đây tôi xin đưa ra
những căn cứ dựa trên các yếu tố hình thức của bài thơ. Tất cả các yếu tố hình thức
5
của thơ Đường đều có khả năng tạo nghĩa: Nhan đề, từ, câu, cấu trúc, niêm, luật vần,
đối... Ở đây, tôi chỉ hệ thống 5 căn cứ mà tôi cho là cơ bản và dễ tiếp nhận nhất với
học sinh lớp 7.
1. Nhan đề bài thơ:
Nhan đề của bất cứ tác phẩm nào cũng quan trọng, nhan đề của một bài thơ
Đường càng quan trọng. Nó thường là một gợi ý để xâm nhập vào thế giới nghệ thuật
của bài thơ. Trong nhan đề “Hồi hương ngẫu thư” của Hạ Tri Chương, chữ “ngẫu”
cho thấy ông không hề có ý định làm thơ, nhưng rồi lại ngẫu nhiên cất bút. Nhưng
đằng sau cái ngẫu nhiên ấy là một nguyên cớ tất yếu đó là tình quê trong ông lúc nào
cũng căng như sợi dây đàn, chỉ chạm khẽ vào cũng đủ ngân nga, chính nó đã bật nảy
tứ thơ khi gặp tình huống cảm xúc. Vì vậy chữ “ngẫu” càng làm tăng sức nặng của
tình quê trong lòng tác giả. Nhan đề cho thấy bao tâm tình Hạ Tri Chương gửi hết cả
vào việc hồi hương chứ không hề nhắc tới hơn 50 năm vinh hiển nơi kinh thành. Xu
hướng tiếp cận bài thơ là khám phá trạng huống biểu hiện của tình quê hương.
Tuy nhiên không phải bất bài thơ nào nhan đề cũng có ý nghĩa.
2. Nghệ thuật đối:
Trong bài thơ Đường làm theo luật, đối trở thành nguyên tắc bắt buộc, được
quy định chặt chẽ, đòi hỏi phải có sự cân xứng cả thanh lẫn ý.
- Về thanh: các từ đối nhau phải cùng loại, danh từ đối với danh từ. Ví dụ tích
nhân đối với thử địa; tính từ đối với tính từ, ví dụ lịch lịch đối với thê thê; tên riêng
đối với tên riêng, ví dụ Hán Dương đối với Anh Vũ; số từ đối với số từ; hư từ đối với
hư từ...
- Về ý: trong thơ đường luật, thanh đi đôi với ý nên khi tìm hiểu thanh thì phải
luôn chú ý đến ý, khi được cả thanh với ý thì mới “đắt”. Nếu gặp trường hợp cần giữ
ý thì phải hi sinh từ. Trường hợp này có thể phải đổi từ loại này với từ loại kia dẫn
đến hiền tượng đối không chỉnh. Ví dụ trong bài Hoàng Hạc lâu, Thôi Hiệu dùng
6
động từ “khứ” đối với danh từ “lâu”. Theo nguyên tắc của luật đối, trong tác phẩm
thơ luật thất ngôn bát cú thì hai liên giữa phải đối nhau. Đi vào thực tế sáng tác của
các cá nhân ta thấy có nhà thơ sử dụng đối ở cả hai liên đầu liên cuối (Đăng cao – Đỗ
Phủ). Vì thế, khi giảng dạy không nên chỉ dừng lại ở việc phát hiện cách khai thác
luật đối theo quy định của thi nhân mà cần thiết phải lưu ý khai thác dụng ý nghệ
thuật tạo điểm sáng trong sự phá cách, đồng thời định hướng cho học sinh vận dụng
vốn hiểu biết tổng hợp để lý giải thấu đáo hình thức nghệ thuật mà tác giả sử dụng
nhằm diễn tả đắc lực nội dung ý tứ của bài thơ.
Ví dụ khi phân tích luật đối trong bài thơ Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu, nhà
nghiên cứu Nguyễn Khắc Phi đã có cách lý giải khá sâu sắc: ở ngay hai câu thơ đầu
mà thơ đã sử dụng hình thức đối thể hiện sự phá cách đầy dụng ý tái hiện thực trạng
cái còn và cái mất. Dùng “hoàng hạc” (loài chim) để đối với “Hoàng Hạc” (tên lầu) là
một sự phá cách nữa, song cho hai từ đó va chạm nhau như vậy mới làm nổi bật được
mối quan hệ giữa cái còn và cái mất, tâm trạng bàng hoàng tiếc nuối của nhà thơ.
Theo thông lệ từ “khứ” không thể đối được với từ “lâu” song nhà thơ Thôi Hiệu vẫn
cứ làm thế bởi vì diễn đạt cái đã đi xa mãi không bằng động từ mà diễn đạt được cái
còn lại, trở lại không gì bằng danh từ.
Trong bài thơ tứ tuyệt có thể đối hoặc không đối, nếu có đối chúng ta chú ý
hiện tượng tiểu đối làm cho bài thơ tuyệt cú có khả năng mở rộng bình diện miêu tả
và thể hiện.
3. Từ (nhãn tự)
Không phải bài thơ nào cũng có nhãn tự, nhưng nếu có phải dành sự quan tâm
thích đáng. Nhiều khi chỉ một từ làm bật lên cả thần thái của bài thơ. Nhiều bài
không chỉ có một nhãn tự mà có một chuỗi các nhãn tự, cùng nhau nổi bật ý tình nhà
thơ gửi gắm.
7
4. Câu
Kết cấu câu trong các bài thơ Đường thường lỏng lẻo nên sức gợi rất lớn.
“Cử đầu khán minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương”
(Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Cúi đầu nhớ cố hương)
Câu thơ không có chủ ngữ, không chỉ một đối tượng cụ thể nào nên từ cảm xúc
rất riêng của Lí Bạch trở thành cảm xúc chung của bất cứ ai trong hoàn cảnh tha
hương
5. Phần kết
Nói chung, bài luật thi là một cấu trúc chỉnh thể, một hệ thống tuần hoàn khép
kín. Hệ thống đó được cấu trúc một cách có quy luật với những quan hệ nội tại chặt
chẽ, đồng thời có mối liên hệ phong phú với thế giới bên ngoài tạo nên sự gợi ý sâu
xa mà ta quen gọi là ý tại ngôn ngoại. Quan hệ nội tại của một bài luật thi được thể
hiện ở niêm, luật, vần, đối, tiết điệu và bố cục. Đó là sự phối hợp có quy luật của
thanh âm (bằng, trắc), ngắt nhịp (chẵn, lẻ), vần và không vần, đối và không đối. Sự
vận hành của xu hướng trữ tình là đi từ xa đến gần, từ ngoại cảnh đến nội tâm, và khi
trữ được tình rồi thì bài thơ kết thúc, đóng lại để mở ra những ý cảnh mới trong tâm
trí người đọc. Do vậy, bài luật thi bao giờ cũng gieo nặng ý nghĩa ở phần kết. Phần
kết tập trung chủ đề của bài thơ. Khi phân tích, khám phá, phần kết được coi như hạt
nhân quy tụ để gợi liên tưởng của người đọc, đồng thời nó cũng như một tiền đề để
hiểu các hình ảnh thơ trước đó. Cũng vì lẽ đó mà có người cho rằng làm một bài thơ
Đường luật phải bắt đầu bằng câu cuối. Và người ta quan niệm một kêt hay thường là
cái kết bỏ lửng hoặc bất ngờ.
Câu thơ kết trong bài “Phong Kiều dạ bạc” của Trương Kế là một cái kết bất
ngờ.
Phiên âm
8
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền
Bài thơ 4 câu. Hai câu trước chỉ 14 chữ mà lột tả hết những gì cảm nhận được
nơi xóm bến, cả nỗi “sầu miên” của lữ khách. Câu 3 như một “thoái triều” để câu 4
bất ngờ xuất hiện độc tôn một tiếng chuông. Nửa đêm tiếng chuông văng vẳng vọng
đến thuyền khách. Tiếng chuông thong thả buông trong đêm tĩnh mịch, tiếng chuông
chùa phổ độ chúng sinh tìm đến bầu bạn với người lữ khách cô đơn. Tiếng chuông
phổ độ này đã đưa toàn bộ thế giới mông lung, tăm tối, hỗn độn trong hai câu trước
đó sang “bỉ ngạn” (bờ kia), chỉ còn lại sự nhẹ nhõm giống như một sự đốn ngộ. Tác
giả đã lại dùng động tả tĩnh, mượn âm thanh để truyền hình ảnh. Tiếng chuông chùa
như một sinh thể sống đến để khai thông bế tắc, hoàn chỉnh thế giới nghệ thuật của
bài thơ, nâng bài thơ lên một tầm cao. Mở ra một trường liên tưởng mới trong lòng
người đọc về sự phổ độ của đạo Phật cho những khổ não và dục vọng của con người.
III. TIẾP CẬN TÁC PHẨM CỤ THỂ
1.
Bài HỒI HƯƠNG NGẪU THƯ của Hạ Tri Chương
Nguyên tác:
回 鄉 偶 書
少小 離 家, 老大 迴
鄕音 無 改, 鬢 毛摧
儿童 相見, 不 相 識
笑問客 從 何處 来
9
Phiên âm:
Dịch nghĩa:
Dịch thơ:
Thiếu tiểu li gia, lão đại hồi
Hương âm vô cải, mấn mao tồi.
Nhi đồng tương kiến, bất tương thức
Tiếu vấn: Khách tòng hà xứ lai?
Rời nhà từ lúc còn trẻ, già mới quay về
Giọng quê không đổi, nhưng tóc mai đã rụng
Trẻ con gặp mặt, không quen biết
Cười hỏi: Khách ở nơi nào đến?
Khi đi trẻ, lúc về già
Giọng quê vẫn thế, tóc đà khác bao.
Trẻ con nhìn lạ không chào
Hỏi rằng khách ở chốn nào lại chơi?
(Phạm Sĩ Vĩ dịch, trong Thơ Đường, tập I, NXB Văn học, Hà Nội, 1987)
1.1.Nhan đề: HỒI HƯƠNG NGẪU THƯ
- Hồi: trở về
- Hương: làng, quê hương
- Ngẫu: tình cờ, ngẫu nhiên
- Thư: ghi lại
Nhan đề bài thơ: Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê cho thấy nhà thơ không hề
có ý định làm thơ khi đặt chân đến quê hương. Bài thơ ra đời từ một sự ngẫu nhiên,
tình cờ. Nhưng đằng sau cái ngẫu nhiên ấy là cái tất nhiên của một tình yêu quê sâu
nặng, thường trực, chỉ cần có duyên cớ là dâng trào bộc lộ.
1.2. Nghệ thuật đối
10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "SKKN Đổi mới cách tiếp cận thơ Đường trong chương trình Ngữ Văn 7 bậc THCS", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- skkn_doi_moi_cach_tiep_can_tho_duong_trong_chuong_trinh_ngu.doc