SKKN Hướng dẫn học sinh khai thác hiệu quả phần chú thích, dẫn giải trong các tiết dạy thơ trung đại môn Ngữ Văn Lớp 7
Một phần không nhỏ trong các chú giải từ ngữ ở sách giáo khoa Ngữ văn 7 tập 1, phần thơ trung đại, là các chú giải từ ngữ về địa danh. Đây là các chú giải quan trọng trong việc tạo dựng không khí bài dạy đồng thời giúp học sinh hình dung rõ nét về những nơi xưa cũ. Với những địa danh lịch sử như Chương Dương, Hàm Tử trong “Phò giá về kinh”, học sinh như được đằm mình trong không khí chiến trận, vang vọng hào khí Đông A. Với những địa danh gắn liền với quãng đời thâm trầm của tác giả như Côn Sơn của Nguyễn Trãi, quê hương Thiên Trường của Trần Nhân Tông, nắm được ý nghĩa của vùng miền đối với tác giả, các em sẽ thấu hiểu lý do vì sao những địa danh thôn quê, bình dị ấy lại nên thơ, đáng yêu đến vậy khi được ngắm nhìn qua lăng kính của thi gia. Hay như những Hàm Dương, Tiêu Tương trong “Sau phút chia li”, chúng vừa giúp học sinh nắm rõ ý nghĩa của các điển tích, điển cố vừa khắc sâu được những địa danh thấm đượm nghĩa tình chia ly…
Hướng dẫn học sinh khai thác hiệu quả phần chú thích, dẫn giải trong các tiết dạy thơ
trung đại môn Ngữ văn lớp 7
PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Như chúng ta biết: Môn Ngữ văn là môn khoa học về nghệ thuật ngôn từ, môn
khoa học nhân văn: “Văn học là nhân học”. Nhận biết đúng đắn về mục tiêu, nhiệm
vụ của môn học này là một vấn đề hết sức quan trọng. Văn học trung đại là một vấn
đề khó khăn bởi cả người dạy và người học đều phải vượt qua rào cản về ngôn ngữ.
Thực tế, chất lượng dạy và học phần văn học trung đại Việt Nam trong chương
trình Ngữ văn THCS còn thấp. Nguyên nhân của tình trạng này có nhiều nhưng
một trong những nguyên nhân quan trọng nhất là năng lực tư duy của học sinh còn
hạn chế, giáo viên chưa tạo được hứng thú học tập cho các em. Do vậy người thầy
cần phải tìm hiểu sử dụng phương pháp dạy học như thế nào cho hợp lý, linh hoạt
để tạo hứng thú học tập và nâng cao chất lượng khi học phần văn học trung đại Việt
Nam này nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của giáo dục và đào tạo.
1. Cơ sở lý luận:
Một trong những thuộc tính mà một văn bản quy phạm pháp luật cần phải có
là tính khả giải. Để văn bản – những thực thể trong kho tàng di sản văn hóa thành
văn của dân tộc và nhân loại – đi vào cuộc sống đương thời có thể hiểu được đối
với những đối tượng tiếp nhận nhất định thì khâu chú thích, dẫn giải có vai trò vô
cùng quan trọng. Vì thế, giảng dạy văn học nhất là văn học cổ trung đại không thể
không quan tâm đến vấn đề này.
Có rất nhiều từ ngữ xuất hiện trong các văn bản văn học cổ trung đại mà nhiều
người không biết. Đây là một hiện tượng rất phổ biến. Hơn nữa, giữa việc tạo ra
ngôn từ và hiện thực có một khoảng cách nhất định. Ngôn từ xưa đã trở thành khó
hiểu đối với ngày nay. Điều này cản trở không nhỏ tới việc thâm nhập, cảm nhận
văn học cổ của các độc giả thời hiện đại, đặc biệt là học sinh lớp 7 THCS. Những
tác phẩm văn học cổ trung đại được đưa vào giảng dạy ở trong chương trình Văn 7
thật không dễ hiểu đối với đối tượng học sinh phổ thông. Nếu người giáo viên đứng
lớp trước một văn bản cổ trung đại mà không nắm vững những câu chữ, ý tình
thông qua phần chuẩn bị giảng, tìm các căn cứ chắc chắn, khoa học, chính xác
trong cách hiểu thì tri thức chuyển tải trong giờ học liệu có là mô phạm cho nền
tảng tri thức của học sinh?
2. Cơ sở thực tiễn:
Nhằm đổi mới phương pháp dạy học để phát huy tính tích cực chủ động của
học sinh, coi trọng vị trí vai trò của người học vừa là đối tượng vừa là chủ thể.
Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, người thầy cần biết định hướng để phát triển
tối đa năng lực học sinh. Thông qua quá trình học tập dưới sự chỉ đạo của giáo
viên, học sinh phải tích cực, chủ động cải biến mình, biết chủ động thu thập tài
liệu, thông tin về bài học; biết sắp xếp những thông tin ấy một cách khoa học; biết
thuyết trình, thảo luận, thắc mắc, bổ sung về những điều mình chưa tỏ trong quá
trình học tập… Nếu giáo viên biết phát huy nội lực từ phía người học thì sẽ nâng
1/27
Hướng dẫn học sinh khai thác hiệu quả phần chú thích, dẫn giải trong các tiết dạy thơ
trung đại môn Ngữ văn lớp 7
cao được chất lượng hiệu quả của quá trình dạy học đồng thời thực hiện tốt nhiệm
vụ đổi mới căn bản giáo dục từ góc độ phương pháp dạy – học.
-
Về phía học sinh: đa số các em ngại học môn Ngữ văn vì phải học nhiều,
viết nhiều nên các em ít chú ý để tư duy mà chỉ học thuộc lòng một cách máy móc
những gì ghi trong sách vở, không biết kết hợp giữa sách giáo khoa và tài liệu
tham khảo. Hơn nữa, kĩ năng viết văn của nhiều em còn hạn chế do ảnh hưởng của
lối sống hiện tại, cách giao tiếp hàng ngày ít chú ý đến lựa chọn từ ngữ, nên việc
sử dụng ngôn từ, đặt câu…còn có nhiều sai sót.
-
Về phía giáo viên: qua thực tiễn giảng dạy của bản thân, thấy được những
khó khăn trong quá trình giảng dạy Ngữ văn nói chung, dạy văn học trung đại nói
riêng, tôi mong muốn làm thế nào để tạo cho các em hứng thú học tập khiến cho
giờ học bớt căng thẳng, các em tiếp thu bài được tốt hơn và năng động sáng tạo
hơn trong học tập.
-
Về phía chương trình: Bộ phận văn học trung đại là thành tựu của ông cha
ta để lại. Đối với học sinh THCS, văn học trung đại vừa là sản phẩm tinh thần, vừa
xa về khoảng cách thời gian, vừa xưa về mặt ngôn từ. Học văn học trung đại không
phải chỉ chiêm ngưỡng các sản phẩm “cổ vật” mà chúng ta phải hiểu được tiếng nói
của người xưa và rung cảm trước những tâm hồn cao đẹp. Sách giáo khoa Ngữ văn
THCS đã đưa vào chương trình một lượng khá lớn những tác phẩm văn học Trung
đại từ lớp 6 đến lớp 9, nhiều nhất là ở chương trình Ngữ văn lớp 7. Muốn dạy và
học đạt hiệu quả cao trong phần văn học này, thì trước tiên người dạy vừa phải có
tâm huyết, vừa phải tạo được hứng thú cho học sinh qua các giờ học về văn học
trung đại ấy. Bởi vậy, chúng tôi mạnh dạn đi sâu nghiên cứu đề tài: “Hướng dẫn
học sinh khai thác hiệu quả phần chú thích, dẫn giải trong các tiết dạy thơ trung
đại môn Ngữ văn lớp 7” nhằm đóng góp một phần nhỏ vào phương pháp giảng dạy
thơ trung đại nói riêng, giảng dạy Ngữ văn ở bậc THCS nói chung.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
- Giúp cho học sinh có phương pháp học tác phẩm thơ trung đại lớp 7 có kết quả.
- Giúp học sinh vừa tiếp cận được với ý nghĩa sâu sắc của từng bài thơ, vừa bước
đầu nắm bắt được nét nghệ thuật tiêu biểu của bài thơ trung đại
- Tạo hứng thú học tập cho học sinh.
- Góp phần phát huy tối đa các năng lực của học sinh theo nội dung dạy học đổi
mới của năm học 2014-2015: Dạy học theo định hướng phát triển năng lực của học
sinh.
III. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
- Khách thể: Học sinh khối 7.
2. Phạm vi nghiên cứu:
Phần văn học trung đại trong chương trình Ngữ văn lớp 7.
3. Thời gian nghiên cứu:
2/27
Hướng dẫn học sinh khai thác hiệu quả phần chú thích, dẫn giải trong các tiết dạy thơ
trung đại môn Ngữ văn lớp 7
Từ tháng 9/2012 đến tháng 2/2015.
IV. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Trong quá trình dạy môn Ngữ Văn lớp 7, tôi đã dần từng bước tìm ra cách tiếp
cận nội dung và nghệ thuật của tác phẩm thơ trung đại từ góc độ các chú thích, dẫn
giải để học sinh tiếp thu bài giảng tốt hơn.
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp dự giờ thăm lớp
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh...
3/27
Hướng dẫn học sinh khai thác hiệu quả phần chú thích, dẫn giải trong các tiết dạy thơ
trung đại môn Ngữ văn lớp 7
PHẦN NỘI DUNG
I. VẤN ĐỀ CHÚ THÍCH, DẪN GIẢI VĂN BẢN CỔ TRUNG ĐẠI
1.
Khái niệm:
Di sản Hán Nôm bao gồm toàn bộ thư tịch, tài liệu được viết bằng chữ Hán, chữ
Nôm của người Việt, một di sản văn hóa phi vật thể vô cùng quý giá của dân tộc
Việt Nam. Kho di sản văn hóa thành văn này là trí tuệ của dân tộc, là tâm huyết của
cha ông, là kho tri thức và kinh nghiệm nhiều mặt của biết bao thế hệ được tích góp
qua hang ngàn năm lịch sử. Những làm thế nào để có thể phổ biến nhanh nhất cái
hay, cái đẹp cái chân lý hàm chứa trong di sản Hán Nôm, làm nó sống dậy hướng
tới ngày nay, tiếp thêm sức mạnh cho chúng ta trên con đường tới tương lai? Khó
khăn ấy sẽ được giải quyết bởi nỗ lực của nhiều cấp, nhiều ngành, đặc biệt là ngành
văn học.
Theo các nhà văn bản học, nhiệm vụ hoạt động của văn bản học là chuẩn bị cho
các văn bản – những thực thể trong kho tàng di sản văn hóa thành văn của dân tộc
và nhân loại – có thuộc tính đích thực, chuẩn xác và khả giải. Cần xác lập văn bản
quy phạm, gạt bỏ những sai lầm, bổ sung thiếu sót, xác định tác giả, niên đại, phân
biệt thật – giả...nhằm tạo tính đích thực và chuẩn xác cho văn bản. Để văn bản dễ
hiểu đối với các đôi tượng tiếp nhận lại là nhiệm vụ của chú thích, dẫn giải văn
bản.
Hai thuật ngữ chú thích và chú giải thường tồn tại song song trong ngành văn
bản học.
Từ điển tiếng Việt quan niệm “chú giải” là “ghi nghĩa để giải thích”, “chú thích”
là “chú nghĩa để giải nghĩa”. “Chú giải” và “chú thích” tương đồng về nghĩa.
Các nhà văn bản học lại có thể xác lập một chia tách giữa hai thuật ngữ:
Phạm vi của chú giải là gồm những lời dẫn giải, mở rộng, đi sâu vào đối
tượng, giải thích rộng hơn chú thích, nhằm vào những đơn vị ngôn từ phức tạp, sâu
xa hơn chú thích.
Phạm vi của chú thích là bám sát đơn vị từ ngữ. Chú thích được sử dụng để
giải thích những từ ngữ đơn lẻ, khó hiều với người ngày nay: từ cổ, từ địa phương,
từ long, từ nước ngoài, từ chỉ những sự việc đã trở nên khó hiểu. Nhiệm vụ của chú
thích là đưa ra thông báo ngắn, chỉ ra nguồn gốc, chỉ ra bản dịch văn bản thuộc
ngôn từ khác.
Không thể quan niệm chỉ “chú giải” mới là kết quả của công trình nghiên cứu
còn chú thích là một thông tin không đòi hỏi công phu nghiên cứu. Nó chỉ giải
thích những chi tiết riêng rẽ của tài liệu chứ không đưa ra một cái gì mới mẻ cho
việc hiểu nội dung của nó. (A.Silôp – “Chỉ đạo việc xuất bản tài liệu thế kỷ XIX –
đầu thế kỷ XX”) hay “mục đích của chú giải là giải thích các văn bản, giải thích bổ
sung các sự việc và sự kiện. Trong thực tiễn xuất bản, các từ “chú thích” và “chú
giải” đôi khi được sử dụng như những từ đồng nghĩa. Điều đó tất nhiên là không
đúng bởi vì giữa từ đầu và từ cuối có sự khác nhau cơ bản... Nếu như “chú giải”
4/27
Hướng dẫn học sinh khai thác hiệu quả phần chú thích, dẫn giải trong các tiết dạy thơ
trung đại môn Ngữ văn lớp 7
thực hiện ý kiến của người chủ biên hay người biên soạn về văn bản thì “chú thích”
thông thường chỉ có tính chất thông báo khách quan” (E.V.Likhtentâyin – “Lý
thuyết và thực hành”). Thực ra chú thích và chú giải đều là huấn hỗ, Tây phương
đều dùng một từ là commentaire hoặc commentary.
Đúng như X.A.Rây-se nhận định: “Khó lòng tìm được thông tin nào chép một
cách máy móc từ từ điển hay từ sổ tay tra cứu lại đủ để thích cho văn học. Việc đưa
ra giới hạn giữa thông tin nghiên cứu và thông tin không nghiên cứu là vô nghĩa.”
và ông khẳng định: “Không một người chú thích nào lại đồng ý rằng có loại thông
báo có thể mang tính chất khách quan. Chính việc chuyển lời giải thích từ sách trả
cứu vào phần chú thích của văn bản là nguyên nhân của sai lầm, có khi rất đáng tức
cười.” (X.A.Rây-se – “Cơ sở văn bản khoa học”).
Từ những nhận định xác đáng trên đây, chúng tôi có thể khẳng định rằng chú
thích và chú giải là hai hoạt động văn bản học có chung một chức năng nhiệm vụ,
chỉ khác nhau về phạm vi và cấp độ triển khai.
Trong sáng kiến kinh nghiệm này, chúng tôi sử dụng thuật ngữ chú thích, dẫn giải
văn bản. Từ điển học sinh cấp II có ghi “chú thích là ghi thêm cho rõ nghĩa một từ
hay một bài văn, dẫn giải là chỉ dẫn, giải thích chỗ khó hiểu.” Như vậy đây là thuật
ngữ có nội hàm khá rộng và tương đương với thuật ngữ chú giải trong văn bản học.
2. Nội dung của chú thích, dẫn giải văn bản:
Chú thích văn bản cổ thường có các nội dung sau đây:
a) Vừa chú thích, vừa phê bình gắn liền với từng chữ từng câu cần được chú giải.
Một điều lưu ý là đối với di sản văn hoá thành văn của nước láng giềng, chủ yếu
của Trung Hoa, in ấn ở Việt Nam, việc chú giải nói chung có điều chỉnh, bổ sung
cho phù hợp với yêu cầu trong nước ít nhất là sắp đặt cho gọn, rõ trọng điểm chứ
không là chép nguyên dạng các bản ấn hành ở nước ngoài. Mặt khác, việc chú giải
này nhiều khi bộc lộ tinh thần độc lập suy nghĩ, phá bỏ những ràng buộc của truyền
thống.
b) Trước thường có xu hướng chú thích, dẫn giải văn bản theo lối "tầm chương
trích cú". Bằng loại chú, dẫn giải về xuất xứ câu, chứ, ý trong truyện, thơ. Với từng
câu, từng chữ, từng ý của tác phẩm cần chú giải nhà văn bản học tìm những câu,
những chữ tương đương trong tiếng Hán để dẫn ra làm căn cứ xuất xứ. Sau phiên
âm, phiên dịch sang tiếng Việt, từ đó định hướng, gợi mở lí giải nội dung, ý nghĩa
của chữ nghĩa tác phẩm.
c) Còn xu hướng chú thích, dẫn giải văn bản cổ trung đại theo hướng: tiến hành
trích dẫn sao cho người đọc hiểu một cách riêng biệt từng chữ, từng ý và nói nội
dung ý nghĩa của từng lời trích dân liên quan đến văn bản tác phẩm. Các nhà văn
bản học chú ý gợi mở cho người đọc thoát ra ngoài ý nghĩa từng câu, từng chữ để
nắm bắt nội dung ý nghĩa trong sự tương quan giữa các điển cố, chữ sách dẫn với
điều được chú thích.
5/27
Hướng dẫn học sinh khai thác hiệu quả phần chú thích, dẫn giải trong các tiết dạy thơ
trung đại môn Ngữ văn lớp 7
d) Xu hướng tiếp theo của chú thích, dẫn giải văn bản cổ trung đại là xu hướng
bình luận về mặt văn chương: chỉ ra cái hay, cái kheo trong văn chương cho được
chỗ tinh thần của tác giả và "chỉ rõ những chỗ đáng hồ nghi về văn lý." (Lời Tản
Đà - "Vương thuý Kiều chú giải tân biên"). Đây cũng là một cần thiết, có tác dụng
lớn làm cho người đọc lĩnh hội nội dung tác phẩm.
e) Ngoài ra còn có xu hướng đề cập đến tác phẩm. Xác lập một văn bản quy phạm
là khó, hiểu văn bản và làm sống dậy giá trị tinh thần của văn bản càng khó khăn
hơn. Bởi thế, công việc dẫn giải xuất xứ tác phẩm một cách cụ thể của các nhà văn
bản học đã làm giảm bớt khó khăn trong quá trình thâm nhập văn bản của độc giả.
3. Vai trò ý nghĩa của chú thích, dẫn giải văn bản
Với văn bản cổ được công bố, phần chú giải sẽ bao gồm những lời giải thích
thuyết minh cho văn bản tác phẩm trở nên dễ hiểu, xét về toàn bộ hay từng phẩn
của nó.
Xác lập văn bản quy phạm, tổ chức cơ cấu văn bản hợp lý, cả hai khâu công biệc
này chỉ thực sự có ý nghĩa khi chúng ta tiếp nối bằng một khâu công việc thứ ba
nữa, đó là chuẩn bị đưa văn bản vào cuộc sống hiện đại. Nhiệm vụ quan trọng ở
đây là tận dụng mọi khả năng để làm cho văn bản trở thành một thực thể di sản văn
hoá có thể hiểu được đối với các đối tượng người đọc khác nhau trong những hoàn
cảnh lịch sử khác nhau.
Nhà văn bản học xác lập văn bản, nghiên cứ kết cấu và chú giải văn bản không
phải để rồi kết quả lao động của mình chỉ nằm trong một văn bản duy nhất cất
trong ngăn kéo bàn giấy, mà là để xuất bản, nghĩa là để nó trở thành kết quả chung.
(X.A.Rây-se - "Cơ sở văn bản học").
Những kết quả thu được về mặt băn bản học có thể được coi như điểm tựa để từ
đó nhà nghiên cứu đi sâu hơn nữa với những bước vững chắc vào tìm hiểu, khám
phá những điều mới mẻ về tác giả, tác phẩm và các vấn đề sáng tạo văn học nói
chung.
Ngành văn học nói chung, công việc chú thích, dẫn giải văn bản chính xác nói
riêng, có thể trở thành trọng tài trong việc giải quyết rất nhiều cuộc tranh cãi -
những cuộc tranh cãi có thể kéo dài vô thời hạn nếu không có sự nghiên cứu một
cách cụ thể các văn bản.
X.A.Rây-se - nhà nghiên cứu văn học và văn bản học viết: "Có thể nói tóm tắt về
thành tựu chính của ngành văn học hiện đại là: văn bản tác phẩm nghệ thuật được
thừa hưởng là thực tế của văn hoá dân tộc. Với ý nghĩa nhất định, văn bản tác
phẩm nghệ thuật không chỉ là của riêng tác phẩm mà còn là của toàn thể nhân dân.
Như vậy việc nghiên cứu văn bản - nghiên cứ utinh chính xác đích thực, tính hiểu
được của văn bản - là có ý nghĩa xã hội. Đó là trách nhiệm của nhà văn bản học
trước nhân dân."
Những ý kiến đó đã khẳng định rất rõ tầm quan trọng, vai trò to lớn của công
việc chú thích, dẫn giải đối với các tác phẩm văn học.
6/27
Hướng dẫn học sinh khai thác hiệu quả phần chú thích, dẫn giải trong các tiết dạy thơ
trung đại môn Ngữ văn lớp 7
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng: công việc chú thích, dẫn giải văn bản là một
công việc bạc bẽo. Phải tốn biết bao nhiêu thời giờ công sức mới tìm được những
tư liệu đáng tin cậy, đủ viết đôi ba dòng chú thích nhưng đã mấy ai hiểu được
những nội cực nhọc ấy khi đôi ba dòng chú thích này?
Tuy vậy, nếu không có những lời chú thích, dẫn giải ấy, nhiều cái hay, cái đẹp,
cái độc đáo, tài tình ẩn tàng trong văn bản sẽ bị bỏ qua, cũng có nghĩa là biết bao
nhiêu tinh hoa tài năng biểu lộ trong nghệ thuật ngôn từ ở quá khứ sẽ bị chôn vùi
trong quên lãng. Vì thế, đối với một văn bản cổ phải coi phần chú giải cũng có giá
trị và quan trọng như phần chính của văn bản.
Như vậy chỉ bằng vài dòng chú thích, dẫn giải văn bản mà tác phẩm trở nên sinh
động hấp dẫn hơn. Những cái hay, cái đẹp, cái tài tình, cái độc đáo ẩn tàng trong
tác phẩm được phô bày và gây hứng thú đặc biệt cho đối tượng tiếp nhận, giúp độc
giả hiểu sâu giá trị tinh thần, hoàn cảnh, tâm sự, ý tưởng của tác giả gửi gắm trong
tác phẩm.
Có thể nói, chú thích, dẫn giải văn bản góp phẩn không nhỏ vào việc làm sống
lại những giá trị thành văn trong quá khứ của dân tộc và nhân loại. Đặc biệt, đối với
học sinh ở bậc THCS nói riêng, bậc THPT nói chung, chú thích dẫn giải là một con
đường giúp các em tiếp cận bước đầu với tác phẩm. Chỉ một vài dòng chú thích về
tác giả hay tác phẩm của người biên soạn cũng đủ giúp các em đặt những bước
chân đầu tiên bước vào thế giới kỳ thú của tác phẩm ấy.
4.Phân loại chú thích, dẫn giải văn bản và những yêu cầu đặt ra đối với chú
thích, dẫn giải văn bản:
4.1. Ở Trung Hoa truyền thống, việc chú giải các sách kinh điển bao gồm hai hình
thức chủ yếu:
“Chú” có nhiệm vụ giải thích cụ thể ngôn từ (âm đọc), ý nghĩa, nhân danh, địa
danh, vật phẩm, chế độ nghi lễ,...
“Sớ” có nhiệm vụ chú giải, mở rộng các văn bản và chú giải những lời của đời
trước.
Bên cạnh đó, “chú” và “sớ”, còn có hai hình thức nữa, thường chỉ dung với một
loại văn bản. Đó là “truyện” và “tiên”.
“Truyện” có nhiệm vụ nêu rõ ý nghĩa, tôn chỉ mục đích của chính văn bản và
giải thích phần “chú”.
“Tiên” là phần chứa đựng những điều bổ sung và đính chính, thậmc hí phản bác
lại ý kiến bình luận, giải thích chính văn của văn bản đã có trước đó và những lời
giải thích của người xưa.
Ở Việt Nam, một thời gian trước đây, các nhà chú thích dẫn giải văn bản chỉ chú
ý đến ba loại (theo sự khảo sát của Nguyễn Thạch Giang trình bày trong cuốn
“Nguyễn Du – Truyện Kiều” – NXB ĐH & THCN.H.1976):
• Chú thích về xuất xứ
7/27
Hướng dẫn học sinh khai thác hiệu quả phần chú thích, dẫn giải trong các tiết dạy thơ
trung đại môn Ngữ văn lớp 7
• Chú thích về ý nghĩa từng câu
• Chú thích có tính chất bình luận văn chương
Chúng ta dễ dàng nhận thấy chỉ ba loại chú thích này thì thật chưa đủ. Một khó
khăn cho người đọc trong khi tiếp xúc với các áng văn cổ là nghĩa các từ nay không
còn thông dụng nữa hay đã biến nghĩa và cách kết cấu ngữ pháp của câu văn, câu
thơ cũng khác so với ngày nay. Do đó, các loại chú thích này cũng phải được chú ý
đích đáng.
Để thực thi hoàn hảo nhiệm vụ làm cho các văn bản cổ trở nên có thể hiểu được
đối với đối tượng tiếp nhận ngày nay các nhà văn bản học thường sử dụng những
loại chú giải sau đây:
a) Chú giải văn bản học:
Qua loại chú giải này, người tiếp nhận được biết - trên những nét chung nhất –
về lịch sử văn bản, nguồn gốc văn bản như: in ở đâu, in bao giờ, có bao nhiêu dị
bản: văn bản được chọn đã được xác lập dựa trên cơ sở nào, nguyên tắc nào; những
lời chỉ dẫn, giải thích về những điểm đã chỉnh lý và bổ sung trong văn bản; những
ưu và nhược điểm của văn bản đã được xác lập; những vấn đề về tác giả và niên đại
của văn bản.
Ví dụ: chú giải (3) trong bài Qua Đèo Ngang, sách dẫn: “Có người nói “rợ mấy
nhà” chứ không phải “chợ mấy nhà’ vì ở Đèo Ngang heo hút, không phải nơi đã
đông dân cư. Nhưng cũng có ý kiến bác lại.”
Yêu cầu đối với loại chú giải văn bản học:
Loại chú giải này nên trình bày dưới hình thức ngắn gọn, rõ ràng, theo một hệ
thống chặt chẽ, qua đó người đọc có thể tạo dựng đươc một lược đồ về văn bản tác
phẩm để tiện theo dõi, tra cứu khi cần thiết.
b) Chú giải lịch sử - văn học:
Những lời chú giải thuộc loại này nhằm mục địch giúp người đọc hiểu sâu hơn
tác phẩm. Nó đóng vai trò hỗ trợ cho “Lời nói đầu” (hoặc Lời giới thiệu hoặc Lời
tựa...) mở đầu cho việc công bố băn bản, thường được viết một cách khái quát.
Bằng việc chú giải trực tiếp, căn cứ vào câu chư, đoạn mạch cụ thể của văn bản,
loại chú giải này giúp người đọc đi sâu thể hội con đường sáng tạo của tác giả văn
bản: vị trí của tác giả văn bản trong sinh hoạt tư tưởng của thời đại; mối quan hệ
giữa văn bản và truyền thống văn hóa; vị trí của văn bản trong sự nghiệp sáng tác
của tác giả và trong lịch sử văn hóa, văn học; nêu ý kiến phê bình đánh giá văn bản,
có từ trước và được coi là chủ yếu nhất...
Ví dụ: Phần tiểu dẫn tác phẩm “Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra”
(Thiên trường vãn vọng, SGK Ngữ văn 7) có dẫn: “Trần Nhân Tông (1258 - 1308)
tên thật là Trần Khâm, con trưởng của Trần Thánh Tông, là một ông vua yêu nước,
anh hung, nổi tiếng khoan hòa, nhân ái, đã cùng vua cha lãnh đạo hai cuộc kháng
chiến chống giặc Mông – Nguyên thắng lợi vẻ vang. Ông theo đạo Phật. Năm
1229, ông về tu ở chùa Yên Tử (thuộc tỉnh Quảng Ninh ngày nay) và trở thành vị tổ
8/27
Hướng dẫn học sinh khai thác hiệu quả phần chú thích, dẫn giải trong các tiết dạy thơ
trung đại môn Ngữ văn lớp 7
thứ nhất của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Trần Nhân Tông còn là một nhà văn
hóa, một nhà thơ tiêu biểu của thời Trần. Bài thơ Buổi chiều đứng ở phủ Thiên
Trường trông ra được sáng tác trong dịp Trần Nhân Tông về thăm quê cũ ở Thiên
Trường (thuộc tỉnh Nam Định ngày nay).”
• Yêu cầu đối với loại chú giải lịch sử - văn học:
Điều cần chú ý ở đây là không nên biên soạn loại chú giả này thành một bài
nghiên cứu hoặc tranh luận, bút chiến về những vấn đề chung của văn bản tác
phẩm. Cố gắng đạt tới chỗ ngắn gọn, tinh xác, cụ thể thiết thực nhất mà khả năng
cho phép.
c) Chú giải từ ngữ:
Loại chú giải này rất quan trọng. Nó hỗ trợ trí nhớ của người đọc văn bản. Nó
dựng lại khung cảnh, không khí trong quá khứ, xuất hiện trong văn bản. Loại này
tập hợp những lời giải thích: tên người, tên đất, sự kiện lịch sử, những thông tin có
tính chất thời sự đối với đương thời nay đã trở nên khó hiểu; những lời ẩn dụ, ví
von...những điển tích, xuất xứ của trích dẫn, những từ cổ, từ ngữ địa phương, từ
ngữ dùng khác với cách dùng thông thường, từ gốc nước ngoài, từ của tiếng nước
ngoài, những thuật ngữ...
Ví dụ: Chú giải (1) trong SGK Ngữ văn 7, bài “Bài ca Côn Sơn” (Côn Sơn ca)
của Nguyễn Trãi:
(1) Côn Sơn: thuộc thôn Chi Ngại, xã Cộng Hòa, ở phía đông bắc huyện Chí
Linh, tỉnh Hải Dương. Nguyễn Trãi đã sống ở đây từ khoảng cuối năm 1437 hay
đầu năm 1438 cho đến ngày bị hại (1442), dù là từ năm 1439 đã được vua Lê Thái
Tông xuống chiếu vời ra giữ nước.
• Yêu cầu đối với loại chú giải từ ngữ:
Khi viết chú giải từ ngữ cho văn bản, người chú giả cần phải xuất phát từ văn
bản, giúp cho người đọc nắm được chiều sâu ý nghĩa của văn bản, dựa trên những
trường lên tưởng lịch sử; cần bám sát trình độ khoa học hiện đại về các mặt ngôn
ngữ, văn học, lịch sử, triết học, khoa học tự nhiên; lời chú giải cần được viết ngắn
gọn nhưng đầy đủ, rõ ràng, tránh lối giải thích chung chung cho mọi văn cảnh theo
kiểu từ điển; cần phải chú ý đến giá trị biểu cảm, sắc thái tu từ của từ được chú giải.
4.2. Những yêu cầu đối với chú thích, dẫn giải từ ngữ:
Đối với mọi loại văn bản không nhất thiết phải có đủ cả ba loại chú giải nói trên
nhưng nhìn chung cả ba loại chú giải đó thường phối hợp gắn bó với nhau theo
những tỷ lệ nhất định xuất phát từ nội dung văn bản và trình độ của đối tượng tiếp
nhận quy định tạo thành cầu nối giữa văn bản và người tiếp nhận.
Nếu chú thích, dẫn giải càng cụ thể, đầy đủ, chi tiết thì người tiếp nhận càng dễ
hiểu văn bản nột cách sâu sắc hơn. Nếu không chú thích dẫn giải văn bản hoặc chú
thích dẫn giải một cách qua loa, sơ sài thì đối tượng khó tiếp nhận văn bản, có thể
hiểu sai, thậm chí không hiểu văn bản.
9/27
Hướng dẫn học sinh khai thác hiệu quả phần chú thích, dẫn giải trong các tiết dạy thơ
trung đại môn Ngữ văn lớp 7
Bởi vậy, việc chú thích, dẫn giải văn bản cần dựa trên những nguyên tắc chủ đạo
sau:
•
Dẫn giải đối với mọi đối tượng tiếp nhận. Nhưng đối với những dối tượng
khác nhau, cần phải có những cách chú giaỉ khác nhau. Sự khác nhau này thể hiện
ở cấp độ và phạm vi của chú giải.
•
Chú giải cho bất cứ đối tượng nào cũng phải bám sát văn bản và đối tượng,
giúp người đọc hiểu đúng, hiểu sâu văn bản, bảo vệ sự trong sáng, rành mạch của
văn bản, chống lại mọi sự xuyên tạc, bóp méo văn bản. Xét trên những khía cạnh
nhất định, chú giải vừa làm "người môi giới" đồng thời cũng là"quân cận vệ của
văn bản".
•
Chú thích dẫn giải không phải là cái bất biến, là một lần có thể dùng mãi
mãi. Nó thay đổi theo thời đại. Phạm vi giới hạn của chú giải chủ yếu là do mục
đích việc công bố văn bản và trình độ của đối tượng tiếp nhận văn bản quy định.
Tuy nhiên, có thể đề ra một giới hạn phổ quát như sau: chỉ những gì cần thiết cho
việc giải thích văn bản một cách trực tiếp thì mới có chỗ đứng hợp tình hợp lý
trong phần chú giải.
Qua thời gian, cơ cấu và trình độ của đối tượng tiếp nhận văn bản có sự thay đổi.
Với tư duy hiện đại, phạm vi chú thích cần phải mở rộng hơn, nội dung cũng cần
phải có sự chỉnh đổi, bổ sung tương ứng. Ví dụ từ "ỏ ê" trong trích đoạn "Nỗi thất
vọng của người cung nữ" (trích "Cung oán ngâm khúc" - Nguyễn Gia Thiều) được
chú thích dẫn giải như sau: "ỏ ê: (tiếng cổ) thăm hỏi, đoái hoài. Lê Văn Hoè nói có
thành ngữ: "nhìn chõ ỏ ê". Không ai nhìn chõ ỏ ê, nghĩa là không ai trông nom hỏi
han."
Có thể trước đây, trong hoàn cảnh lịch sử cuối thể kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX,
nhà văn bản học không cần chú thích, dẫn giải nội dung, ý nghĩa của chữ "ỏ ê".
Nhưng với độc giả hiện nay, khi tác có chữ "ỏ ê" mà không được chú thích dẫn giải
nội dung ý nghĩa thì việc cảm nhận tác phẩm trở nên khó khăn, nhất là đối tượng
tiếp nhận là học sinh bậc trung học.
• Không thể quan niệm có chủ nghĩa khách quan trong công việc chú thích,
dẫn giải. Trước một văn bản cụ thể, khi phải trả lời câu hỏi: cần chú giải những gì
và chú giải thế nào, người làm công tác chú giải nhất định sẽ phải đưa vào đó
những lời giải thích nhận xét đánh giá, gắn bó chặt chẽ với lập trường tư tưởng của
mình. Việc định hướng cho độc giả tiếp nhận, thâm nhập, lý giải văn bản qua chú
giải văn bản là công việc đòi hỏi một lập trường tư tưởng đúng đắn, kiên định.
Người chú giải khi tiến hành công việc cần phải nhận rõ âm hưởng chính trị - xã
hội chủ đạo của thời đại và nói lên lập trường quan điểm của chính mình. Đó là vai
trò tích cực của người chú giải trong quá trình dưa văn bản cổ - những thực thể di
sản văn hoá thành vănn của dân tộc và nhận loại vào cuộc sống hiện đại.
Tóm lại, việc chú thích, dẫn giải văn bản học là vô cùng cần thiết cho người
nghiên cứu và học tập thơ văn cổ. Nó giúp cho việc định hướng nghiên cứu và hiểu
10/27
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "SKKN Hướng dẫn học sinh khai thác hiệu quả phần chú thích, dẫn giải trong các tiết dạy thơ trung đại môn Ngữ Văn Lớp 7", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- skkn_huong_dan_hoc_sinh_khai_thac_hieu_qua_phan_chu_thich_da.doc