SKKN Kinh nghiệm giúp đỡ học sinh học yếu môn Toán

Trong năm học này có một trường hợp khá đặc biệt ở lớp 3 của tôi. Đó là T.A, một học sinh bị hổng kiến thức hầu như ở cả lớp 1 và lớp 2. Em học yếu môn toán thuộc vào loại 1 và 4 đã nêu ở trên (học yếu do kiến thức cũ bị hổng và do thiếu điều kiện học tập). “Căn bệnh suy thoái toàn diện này” không thể chữa chạy trong một thời gian ngắn. Tôi đặt quyết tâm suốt học kì I để em có thể theo kịp các bạn trong lớp. Mỗi tuần tôi cùng học với em hai buổi, rà lại những kiến thức cơ bản nhất từ các lớp dưới. Tôi soạn cho T.A những bài tập riêng, cùng chấm bài tay đôi với em, có kế hoạch cụ thể với mẹ em trong việc kèm cặp con (bố mẹ T.A bỏ nhau, nhà lại nghèo, mẹ mắc bệnh tim đau ốm quanh năm). Ngoài việc dần dần hình thành phương pháp học toán cho em; ở lớp tôi, tôi thường xuyên khích lệ T.A, tổ chức các bạn cùng động viên và giúp đỡ. Cho tới nay, T.A đã tiến bộ hơn rất nhiều. Tât nhiên, T.A còn phải cố gắng nhiều hơn nữa mới có thể học toán vững vàng nhưng tôi rất hy vọng ở T.A.
PHÒNG GIÁO DỤC ĐÀO TẠO ĐỐNG ĐA  
TRƯỜNG TIỂU HỌC CÁT LINH  
Trao đổi kinh nghiệm  
Kinh nghiệm giúp đỡ học sinh học yếu môn Toán.  
Giáo viên: Nguyễn Phương Thảo  
Giáo viên trường tiểu học Cát Linh  
NĂM HỌC 2004 – 2005  
A. Lý do chọn đề tài  
Vào một năm học mới, sau khi ổn định tổ chức, giáo viên phải  
tìm hiểu và phân loại học sinh để biện pháp bồi dưỡng, giúp đỡ học  
sinh học tập các bộ môn, đặc biệt là môn Toán. Trong thực tế giảng dạy  
hiện nay, chúng ta thường xuyên gặp những học sinh học tập yếu kém  
mà các thầy cô giáo có lương tâm và trách nhiệm không thể hờ hững được  
đây nhiệm vụ của mình.  
Do yêu cầu phổ cập giáo dục chất lượng thực chất của học  
sinh trong một lớp học đại trà chưa đạt chuẩn nên điều tất yếu trong  
các lớp đó thường một số học sinh học yếu hai bộ môn Văn, Toán do bị  
hổng các kiến thức kỹ năng cơ bản. Nhiệm vụ được đặt ra là người giáo  
viên phụ trách lớp phải cố gắng giúp đỡ các em này nhanh chóng theo kịp  
được với mặt bằng kién thức chung của lớp mình.  
B. Cơ sở luận  
luận thực tiễn cho thấy:  
- Một học sinh bình thường về mặt tâm lý không có bệnh tật đều khả  
năng tiếp thu môn Toán theo yêu cầu phổ cập của chương trình Toán Tiểu  
học.  
- Những học sinh từ trung bình trở xuống: Các em có thể học đạt yêu cầu  
của chương trình nếu được hướng dẫn một cách thích hợp.  
Qua thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy:  
+ Với môn Toán, hầu hết các học sinh yếu đều một nguyên nhân  
chung là: kiến thức ở các lớp dưới bị hổng; không có phương pháp học  
tập; tự ti. rụt rè, thiếu hào hứng trong học tập.  
+ Ở mỗi học sinh yếu bộ môn Toán đều xó nguyên nhân riêng, rất đa  
dạng. thể chia ra một số loại thường gặp là:  
1. Do quên kiến thức cơ bản, kỹ năng tính toán yếu.  
2. Do chưa nắm được phương pháp học môn Toán, năng lực tư duy  
bị hạn chế (loại trừ những học sinh bị bệnh bẩm sinh). Nhiều học  
sinh thể lực vẫn phát triển bình thường nhưng năng lực tư duy toán  
học kém phát triển.  
3. Do lười học.  
4. Do thiếu điều kiện học tập hoặc do điều kiện khách quan tác  
động - học sinh có hoàn cảnh đặc biệt (gia đình xảy ra sự cố đột  
ngột, hoàn cảnh éo le…).  
Xác định một trong những nguyên nhân trên đối với mỗi học sinh là  
điều quan trọng. Công việc tiếp theo là giáo viên có biện pháp để xoá bỏ  
dần các nguyên nhân đó, nhen nhóm lại lòng tự tin và niềm hứng thú của  
học sinh đối với việc học môn Toán.  
C. Những biện pháp cụ thể để giảm dần số lượng học sinh học yếu  
môn Toán.  
Với đối tượng loại 1:  
kiến thức ở lớp dưới của các em bị hổng, không thể nào bù  
đắp ngay được trong một thời gian ngắn. Tôi dặt quyết tâm trong suốt cả  
năm học, đặc biệt học kì I để giúp nhóm học sinh loại này lấp dần các  
lỗ hổng kiến thức. Đối với những học sinh này phải có thêm thời gian học  
dưới sự hướng dẫn lại tỉ mỉ những kiến thức cơ bản, trọng tâm theo một  
hệ thống riêng và yếu tố dẫn đến thành công là nắm chắc, luyện kĩ. Trong  
các buổi học trên lớp thường được kiểm tra, rà soát và củng cố các kiến  
thức, chấm bài tay đôi trong tiết luyện tập, thường xuyên khích lệ động  
viên mỗi khi các em được điểm cao hơn. Do đó các học sinh này có nhiều  
tiến bô; cụ thể là: thích học toán, hay xung phong lên bảng…  
Với đối tượng loại 2:  
Vấn đề cơ bản là giúp các em lấy lại lòng tự tin, phát huy được  
những tố chất cơ bản đang tiềm ẩn trong mỗi em trong việc học tập môn  
Toán. Phương pháp trực quan, hệ thống các bài tập từ dễ đến khó, tìm  
các cách giải khác nhau cùng với các câu hỏi vừa sức, các bài toán vui,  
các bài toán gắn với thực tế chính là chìa khoá để giải quyết vấn đề.  
Với đối tượng loại 3:  
Những học sinh này trong lớp thường không chú ý nghe giảng,  
mỗi khi làm bài kiểm tra tại lớp thường cẩu thả, không có ý thức kiểm tra  
lại bài làm. Cô giáo nhắc nhở thì xem lại qua loa cho xong chuyện. Bài tập  
và bài học ở nhà không chuẩn bị chu đáo trước khi đến lớp. Tóm lại, đối  
với diện học sinh này cần sự kết hợp chặt chẽ với phụ huynh nhằm  
quản việc học ở nhà và việc kiểm tra nhắc nhở thường xuyên ở lớp để  
từng bước đưa các em vào nền nếp học tập.  
Cách đây 2 năm, ở lớp tôi chủ nhiệm một trường hợp làm tôi  
buồn phiền. Em Minh là một học sinh giỏi toán năm lớp 3. Đầu năm học  
tập bình thường nhưng đến cuối học kì I đầu học kì II bỗng học sút hẳn đi  
do tính Minh hiếu động, ham chơi. Bài tập ở nhà Minh làm một cách qua  
loa, chiếu lệ. Đến lớp thường ít nghe giảng, hay nói chuyện và làm việc  
riêng. Bố mẹ lại bận không quan tâm đôn đốc, kiểm tra thường xuyên. Xu  
hướng học kiểu “Tài tử”biểu hiện rõ. Một lần làm bài kiểm tra tại lớp, Minh  
làm xong trước tiên, đem nộp bài rồi ngồi chơi. Xem qua bài của em tôi  
thất vọng quá. Tôi gọi em lên và bảo:  
- Con xem lại bài đi! Bây giờ vẫn còn nhiều thời gian, nếu chấm bài  
thì bài của con dưới điểm trung bình đấy!  
Minh cúi đầu, trả lời lí nhí:  
-
Thưa cô, con ngại làm lại lắm ạ.  
Tôi thật buồn khi nghe Minh trả lời như vậy. Trường hợp của Minh học  
sút kém thuộc loại thứ 3 vừa nêu. Minh có năng lực học toán nhưng học  
tập sút kém do lười học. Tôi đã đến trao đổi với bố mẹ Minh đề nghị gia  
đình phối hợp kèm cặp. Riêng Minh tôi bắt đầu biện pháp kiểm tra thường  
xuyên, chú ý đồn đốc nhắc nhở, dùng dư luận tập thể phê phán, giúp đỡ.  
Giữa học kì II, khuyết điểm của Minh đã giảm nhiều. Cuối năm học, Minh  
một trong những học sinh giỏi của lớp.  
Với đối tượng loại 4:  
Các em này thiếu thốn cả vật chất lẫn tình cảm. Tôi bố trí thời  
gian kèm cặp, lấp dần lỗ hổng kiến thức, hình thành dần phương pháphọc  
toán cho các em. Luôn khích lệ động viên để các em không bị mặc cảm,  
tự ti mà tự tin vào bản thân mình để từ đó vươn lên trong học tập. Với các  
em này, cô giáo phải hết lòng thương yêu, giúp đỡ. Cô là chỗ dựa tinh  
thần và tình cảm của các em. Sự tiến bộ của các em chính là phần thưởng  
vô giá đối với người giáo viên chủ nhiệm.  
Trong năm học này có một trường hợp khá đặc biệt ở lớp 3 của  
tôi. Đó là T.A, một học sinh bị hổng kiến thức hầu như ở cả lớp 1 và lớp 2.  
Em học yếu môn toán thuộc vào loại 1 và 4 đã nêu trên (học yếu do  
kiến thức cũ bị hổng và do thiếu điều kiện học tập). “Căn bệnh suy thoái  
toàn diện này” không thể chữa chạy trong một thời gian ngắn. Tôi đặt  
quyết tâm suốt học kì I để em có thể theo kịp các bạn trong lớp. Mỗi tuần  
tôi cùng học với em hai buổi, lại những kiến thức cơ bản nhất từ các lớp  
dưới. Tôi soạn cho T.A những bài tập riêng, cùng chấm bài tay đôi với em,  
kế hoạch cụ thể với mẹ em trong việc kèm cặp con (bố mẹ T.A bỏ  
nhau, nhà lại nghèo, mẹ mắc bệnh tim đau ốm quanh năm). Ngoài việc  
dần dần hình thành phương pháp học toán cho em; ở lớp tôi, tôi thường  
xuyên khích lệ T.A, tổ chức các bạn cùng động viên và giúp đỡ. Cho tới  
nay, T.A đã tiến bộ hơn rất nhiều. Tât nhiên, T.A còn phải cố gắng nhiều  
hơn nữa mới thể học toán vững vàng nhưng tôi rất hy vọng ở T.A.  
D. Tự đánh giá kết quả.  
Trong quá trình giảng dạy bộ môn do luôn có ý thức lưu tâm  
giúp đỡ học sinh yêu Toán, tôi nhận thấy:  
Chất lượng bộ môn toán tăng rệt.  
Học sinh loại 1, 2, 4 tăng rệt.  
Học sinh loại 3 tiến bộ chậm vì không phải phụ huynh nào cũng  
điều quan tâm đến con.  
Riêng những học sinh phát triển thể chất bình thường nhưng năng  
lực tư duy yếu thì giáo viên phải mất rất nhiều thời gian kèm cặp các  
em mới đạt được mức trung bình.  
E. Kết luận  
Tóm lại, ở tất cả các trường hợp học sinh yếu môn Toán, việc  
quan tâm của giáo viên đến từng học sinh và phương pháp giảng dạy sát  
đối tượng, kịp thời khích lệ động viên, đáp ứng đúng những điều các em  
còn thiếu về kiến thức, kỹ năng và cách suy luận toán học… sẽ giúp các  
em dần theo kịp yêu cầu về chất lượng học tập môn Toán ở cấp tiểu học…  
Song nhiệm vụ chủ yếu của người thầy vẫn sự tiến bộ chung  
của toàn lớp. thế tôi nghĩ, trong trong tất cả các khâu soạn, giảng,  
kiểm tra người thầy vẫn phải lấy trình độ tiếp thu chung của lớp làm  
chuẩn mực để hướng tới. Vấn đề là, trong cái chuẩn mực chung ấy người  
thầy còn phải luôn luôn lưu tâm đến những em học yếu môn Toán, luôn  
dành cho các em một sự ưu ái, một thái độ khích lệ, động viên, những lời  
chỉ bảo ân cần… sự tiến bộ của các em trong học tập phần thưởng  
vô giá đối với mỗi người giáo viên chúng ta. Trên đây một vài kinh  
nghiệm của tôi trong việc giúp đỡ học sinh học yếu môn Toán.  
Nội, ngày 1 tháng 4 năm 2005  
Người viết  
Nguyễn Phương Thảo  
doc 6 trang huongnguyen 18/02/2025 90
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Kinh nghiệm giúp đỡ học sinh học yếu môn Toán", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docskkn_kinh_nghiem_giup_do_hoc_sinh_hoc_yeu_mon_toan.doc