SKKN Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy Kể chuyện cho HS Lớp 1

Từ thực trạng nêu trên, là giáo viên dạy khối 1 nhiều năm tôi luôn trăn trở và suy nghĩ làm thể nào để nâng cao chất lượng dạy học phân môn kể chuyện; làm thế nào để đem lại những giờ học thực sự lý thú và bổ ích cho các em; làm thế nào để giúp các em kể lại được 1 phần của câu chuyện nâng dần đến việc kể lại toàn bộ truyện, đạt mục tiêu của giờ dạy học kể chuyện. Xuất phát từ những lý do nêu trên, tôi quyết định lựa chọn đề tài: “ Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học kể chuyện cho học sinh lớp 1”làm mục đích nghiên cứu.
Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy Kể chuyện cho HS lớp 1.  
A. PHꢀN Mꢀ ĐꢀU  
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:  
Trong chương trình giảng dạy ở trường Tiểu học, môn Tiếng Việt đóng một  
vai trò rất quan trọng. Nó hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng  
Tiếng Việt (nghe, nói, đọc viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt  
động của lứa tuổi. Thông qua việc dạy học Tiếng Việt góp phần rèn luyện thao tác  
duy, củng cố cho học sinh những kiến thức sơ giản về TiếngViệt những hiểu  
biết sơ giản về hội, tự nhiên và con người, về văn hoá, văn học Việt Nam và  
nước ngoài. Môn Tiếng Việt ở Tiểu học bao gồm nhiều phân môn như Tập đọc,  
Tập làm văn, Luyện từ và Câu, Chính tả, Kể chuyện. Trong mỗi phân môn lại có  
những đặc trưng riêng trong việc hình thành và phát triển tư duy.  
Kể chuyện là phân môn học tập lý thú, hấp dẫn với học sinh Tiểu học nói  
chung và học sinh lớp 1 nói riêng. Tiết kể chuyện thường được các em chờ đón,  
tiếp thu bằng một tâm trạng hào hứng, vui thích. Phân môn Kể chuyện ở tiểu học  
giúp học sinh củng cố, mở rộng và tích cực hoá vốn từ ngữ, phát triển tư duy hình  
tượng duy lô gích cho học sinh, nâng cao hiểu biết của các em về đời sống.  
Thật vật, thích nghe kể chuyện một đặc điểm của trẻ em. Từ tuổi lên ba bập  
bẹ tập nói các em đã say mê nghe ông bà, cha mẹ kể chuyện. Đến tuổi mẫu giáo  
nhu cầu thích nghe kể chuyển lại tăng lên nhiều thế giới của những câu chuyện  
bao gồm những điều vô cùng mới lạ, hấp dẫn đối với các em. Bước vào tuổi Tiểu  
học nhu cầu đó vẫn không hề giảm tiếp tục được tăng lên. Chính vì vậy kể  
chuyện một sức mạnh rất lớn trong việc giáo dục trẻ. Sức mạnh này bắt nguồn  
từ công cụ mà phân môn Kể chuyển sử dụng. Các câu chuyện được đưa vào giảng  
dạy cho học sinh là các tác phẩm văn học nghệ thuật có tác động lớn đến tâm hồn  
cảm xúc của trẻ, đem lại những cảm xúc mạnh mẽ, lành mạnh, giúp cho các em  
mở rộng tầm hiểu biết về thế giới xung quanh, khơi gợi trí tưởng tượng, chắp cánh  
cho những ước mơ cao đẹp khi các em bước vào cuộc sống. Hơn nữa, được sống  
với các nhân vật trong truyện tư duy hình tượng của các em được khêu gợi và có  
điều kiện phát triển cùng với cảm xúc thẩm mỹ. Mặt khác giờ kể chuyện còn phát  
triển ngôn ngữ nói của học sinh. Điều đáng chú ý ở đây tiết Kể chuyện dạy cho  
học sinh kỹ năng nói trước đám đông một cách nghệ thuật. Cần phải rèn luyện giúp  
học sinh nắm được các thủ thuật nói hấp dẫn người nghe, để thể điều khiển  
được giọng kể hợp với từng loại truyện khác nhau.  
1 /37  
Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy Kể chuyện cho HS lớp 1.  
thể nói phân môn Kể chuyện một phân môn có tầm quan trọng rất lớn  
góp phần không nhỏ trong việc hình thành và rèn luyện kỹ năng nghe, nói cho học  
sinh. Kỹ năng nghe, nói là 2 trong 4 kỹ năng cơ bản bộ môn Tiếng Việt ở Tiểu  
học cần hình thành và rèn luyện cho các em. Đặc biệt đối với học sinh lớp 1 việc  
rèn luyện kĩ năng nghe, nói còn là điều kiện giúp các em thực hiện tốt kỹ năng đọc  
viết.  
Thực tế qua giảng dạy khối lớp 1 nhiều năm tôi nhận thấy học sinh lớp 1  
vốn kiến thức còn rất hạn hẹp, vốn từ còn quá ít, các em thích nghe kể chuyện  
nhưng lại không kể được. Có em kể được 1 đoạn truyện hay cả câu chuyện nhưng  
lời kể chưa rõ ràng, lưu loát, giọng điệu chưa thích hợp. Các em còn e dè và ngại  
ngùng khi nói trước đám đông. Điều này chưa đáp ứng được mục tiêu của việc dạy  
học phân môn Kể chuyện.  
Ngoài ra qua trao đổi với bạn đồng nghiệp tôi thấy phân môn Kể chuyện  
chưa được giáo viên quan tâm nhiều, từ việc dành thời gian chuẩn bị cho đến việc  
tổ chức các hoạt động dạy học. Trang thiết bị giảng dạy phục vụ cho phân môn  
Kể chuyện còn ít đôi khi tranh ảnh được cung cấp không trùng với tranh minh hoạ  
trong sách giáo khoa. Đặc biệt chương trình dạy kể chuyện dành cho khối lớp 1  
cũng nhiều bất cập. Truyện dài được kể trước, truyện ngắn kể sau. Phần kể  
chuyện lại dạy chung cùng với phần ôn tập vần. Trong các tiết dạy này giáo viên  
thường chú trọng tới rèn luyện kỹ năng đọc, viết, thời gian dành cho học sinh tập  
nói, tập kể ít. Nguyên nhân của vấn đề này là do đâu? Đổ lỗi cho chương trình hẳn  
không thể, quy vào trách nhiệm cho giáo viên cũng không nên. Nhưng đây cũng là  
một thực tế, những khó khăn mà giáo viên gặp phải trong quá trình dạy học phân  
môn Kể chuyện.  
Từ thực trạng nêu trên, là giáo viên dạy khối 1 nhiều năm tôi luôn trăn trở và  
suy nghĩ làm thể nào để nâng cao chất lượng dạy học phân môn kể chuyện; làm thế  
nào để đem lại những giờ học thực sự lý thú và bổ ích cho các em; làm thế nào để  
giúp các em kể lại được 1 phần của câu chuyện nâng dần đến việc kể lại toàn bộ  
truyện, đạt mục tiêu của giờ dạy học kể chuyện. Xuất phát từ những lý do nêu  
trên, tôi quyết định lựa chọn đề tài: Một số biện pháp nhằm nâng cao chất  
lượng dạy học kể chuyện cho học sinh lớp 1làm mục đích nghiên cứu.  
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:  
- Đề xuất những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả dạy học phân môn kể  
chuyện ở lớp Một từ đó góp phần nâng cao chất lượng dạy học Tiếng Việt ở khối  
lớp 1 nói riêng và ở cấp Tiểu học nói chung.  
2 /37  
Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy Kể chuyện cho HS lớp 1.  
III. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:  
- Nghiên cứu cơ sở luận.  
- Đề tài có nhiệm vụ khảo sát chương trình sách giáo khoa, sách giáo viên  
khối 1.  
- Nghiên cứu thực trạng dạy học Kể chuyện ở trường Tiểu học.  
- Phân tích những thuận lợi, khó khăn của giáo viên và học sinh khi tham gia  
dạy học phân môn Kể chuyện từ đó đề xuất những biện pháp nhằm nâng cao  
chất lượng dạy học phân môn Kể chuyện ở lớp 1.  
IV. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU.  
- Nội dung chương trình phân môn Kể chuyện lớp 1. Các bài học nội  
dung kể chuyện trong sách giáo viên, sách Tiếng Việt 1.  
- Thực trạng dạy học kể chuyện ở khối lớp 1.  
- Các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy kể chuyện ở lớp 1.  
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  
- Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu các tài liệu văn bản liên quan nhằm  
khái quát, hệ thống hoá những vấn đề luận cơ bản của đề tài.  
- Phương pháp quan sát: Tiến hành dự giờ, quan sát hoạt động dạy, hoạt  
động của học sinh trong tiết kể chuyện. Phỏng vấn một số học sinh để nắm bắt chất  
lượng học phân môn kể chuyện.  
- Điều tra, thống thực trạng dạy học phân môn Kể chuyện khối lớp 1.  
- Khảo sát chất lượng giảng dạy sử dụng đồ dùng trong phân môn Kể  
chuyện.  
- Tiến hành dạy thực nghiệm để kiểm tra các biện pháp đã đề xuất.  
- Phương pháp tổng kết, rút kinh nghiệm khi triển khai áp dụng một số biện  
pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy kể chuyện ở khối lớp 1.  
VI. PHẠM VI, GIỚI HẠN NGHIÊN CỨU:  
- Chương trình của phân môn Kể chuyện ở lớp Một gồm 2 phần:  
+ Các truyện kể trong các tiết Ôn tậpcủa phần học vần (24 tuần đầu).  
+ Các tiết kể chuyện trong phân phối chương trình của phần Luyện tập  
tổng hợp(Từ tuần 25 đến hết tuần 35).  
+ Các tiết kể chuyện trong sách giáo viên (Các tiết hướng dẫn kể chuyện  
trong sách giáo viên).  
+ Học sinh khối 1.  
+ Các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học kể chuyện cho học sinh  
khối 1  
3 /37  
Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy Kể chuyện cho HS lớp 1.  
.
B. PHẦN NỘI DUNG  
CHƯƠNG I : CƠ SỞ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI  
1. Những căn cứ khoa học:  
1.1 Vị trí, vai trò của bậc Tiểu học:  
Bậc Tiểu học bậc học nền tảng trong hệ thống giáo dục quốc dân, là bậc  
học chủ yếu dành cho trẻ em trong độ tuổi từ 6 -> 11 tuổi.  
Bậc Tiểu học tạo ra những cơ sở ban đầu rất cơ bản bền vững cho trẻ em  
tiếp tục học lên bậc học trên; hình thành những cơ sở ban đầu, đường nét ban đầu  
của nhân cách. Những thuộc về tri thức, kỹ năng, hành vi và lòng nhân ái được  
hình thành và định hình ở học sinh Tiểu học sẽ đi theo suốt cuộc đời mỗi em. Nếu  
ở Tiểu học đặt nền móng vững chắc đúng hướng thì các lớp sau chỉ củng cố  
và phát triển các tố chất ở trẻ. Chính vì lẽ đó ở bất cứ quốc gia nào cũng coi  
trọng giáo dục Tiểu học đòi hỏi mỗi chuẩn mực chứa đựng những yếu tố khoa  
học, tính phổ cập, tính nhân văn, tính thời đại và tính dân tộc.  
1.2. Định hướng đổi mới phương pháp dạy học ở tiểu học:  
Định hướng đổi mới phương pháp được thể hiện trong tư tưởng Hồ Chí  
Minh và quan điểm giáo dục của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Nghị Quyết Trung  
ương 4 khoá VII đã quy định phải Khuyến khích tự học, phải Áp dụng những  
sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề. Nghị quyết trung ương 2 khoá VIII tiếp tục  
khẳng định: Đổi mới phương pháp giáo dục - Đào tạo, khắc phục lối truyền thụ  
một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng  
các phương tiện tiên tiến và các phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, đảm  
bảo điều kiện thời gian tự học, tnghiên cứu của học sinh”  
Định hướng trên đây được pháp chế hoá trong Luật giáo dục đã sửa đổi, điều  
28 khoản 2 Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác,  
chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm từng lớp học, môn học, bồi  
dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn,  
tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.  
Những định hướng trên đây phải được người giáo viên nắm vững thực  
hiện nghiêm túc. Người giáo viên phải nhận thức được trong bối cảnh hiện nay, các  
tri thức tâm lí học, giáo dục học, các khoa học có liên quan phát triển mạnh mẽ,  
thông tin đến với học sinh tăng một cách nhanh chóng. Công cuộc đổi mới chương  
4 /37  
Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy Kể chuyện cho HS lớp 1.  
trình sách giáo khoa đòi hỏi người giáo viên phải lựa chọn sử dụng hợp lý, sáng  
tạo và có hiệu quả phương pháp dạy học của mình.  
2. Cơ sở khoa học:  
Kể chuyện một khái niệm vô cùng gần gũi với trẻ em nhưng để biến  
chúng thành kỹ năng cho trẻ thì quả không dễ dàng. Để đảm bảo xây dựng cho học  
sinh kỹ năng kể chuyện người giáo viên cần phải nắm vững những cơ sở khoa học  
của việc dạy kể chuyện.  
2.1. Thế nào là kể chuyện ?  
Để hiểu đúng thuật ngữ này, trước tiên chúng ta cần tìm hiểu xem thế nào là  
Kểthể nào là chuyện?.  
Theo từ điển Tiếng Việt của tác giả Hoàng Phê thì Kểnói một cách có  
đầu cuối cho người khác nghe những điều tai nghe mắt thấy. Còn chuyệnlà  
sự việc diễn biến nhằm nói lên một điều đó. Như vậy Kể chuyện một  
phương thức tự sự, một phương thức biểu đạt để kể lại các chuyện.với phương  
pháp này chúng ta đều thể tạo nên các truyện - một thể loại văn học tự sự.  
Do đó, chúng ta có thể hiểu Kể chuyện một thuật ngữ vì nó có một kết cấu  
âm tiết ổn định, một phạm trù ngữ nghĩa nhất định. Dưới góc độ giao tiếp thì Kể  
chuyện một hoạt động giao tiếp ở đó người phát, người nhận. Nội dung  
thông tin là toàn bộ các sự việc xảy ra trong đời sống của con người.  
2.2 Đặc điểm của kể chuyện:  
Như chúng ta đã biết, đặc điểm đầu tiêu của kể chuyện phải cốt truyện  
để kể. Truyện ở đây thể xem là những sự việc diễn biến và các ý nghĩa của  
truyện.  
Đối với những sự việc diễn biến, thành phần thứ nhất của truyện chỉ  
đóng vai trò phương diện, còn ý nghĩa của truyện mới là cái đích của câu chuyện  
đó. Bởi lẽ, những sự vật, sự việc, nhân vật hay tình tiết... trong truyện thể có  
thật song cũng thể do hư cấu; còn ý nghĩa thực hiện của truyện thì luôn gắn liền  
với niềm tin, lí tưởng đạo đức và quan điểm của thời đại. Như vậy, để đánh giá một  
câu chuyện là hay hoặc dở chúng ta cần căn cvào ý nghĩa cuộc sống mà nó mang  
đến cho người thưởng thức.  
Đặc điểm thứ hai của kể chuyện phụ thuộc hoàn toàn vào cách dẫn dắt của  
người kể. Kể chuyện một dạng độc thoại mang tính nghệ thuật nên sự thành  
công của công việc kể chuyện phụ thuộc rất nhiều vào người kể. Điều đó thể hiện  
qua việc sắp xếp các tình tiết của truyện, cách mở đầu kết thúc câu chuyện, cách  
lựa chọn ngôi kể, chi tiết tình huống.... Hơn nữa người kể chuyện phải biết sắp xếp  
5 /37  
Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy Kể chuyện cho HS lớp 1.  
các tình tiết trong câu chuyện theo trình tự hợp về mặt thời gian nhằm đảm bảo  
tính lôgic. Người k phải lựa chọn giọng kể để tạo nên sự lôi cuốn, hấp dẫn. Đồng  
thời phải biết cách kết thúc truyện sao cho khéo léo, ấn tượng, gây được dư âm  
trong lòng người nghe. Không những thế, người kể phải biết cách tạo ra điểm nút  
và cách tháo gỡ điểm nút đó trong câu chuyện sao cho thật thú vị, bất ngờ hợp  
lí.  
Một điều đặc biệt người kể chuyện phải lựa chọn ngôi kể sao cho phù hợp  
với mục đích kể chuyện của mình, có thể hoá thân thành nhiều nhân vật trong  
truyện đgây sự chú ý của người thưởng thức. Đồng thời cũng phải quan tâm, để ý  
xem đối tượng tiếp nhận của mình là ai. Trong quá trình kể chuyện thì người kể có  
thể sử dụng các yếu tố phi ngôn ngữ (Ngữ điệu, ánh mắt, điệu bộ) hỗ trợ thêm,  
song một điều cần lưu ý là luôn giữ đúng nội dung câu chuyện đảm bảo được ý  
nghĩa của câu chuyện đó.  
2.3 Vận dụng thuyết giao tiếp trong quá trình dạy kể chuyện cho học sinh:  
Trong chương trình Tiếng Việt, phân môn Kể chuyện nội dung chủ yếu là  
dạy học sinh sản sinh các văn bản thành văn bản nói. Vì vậy để dạy học sinh sản  
sinh các văn bản nói người giáo viên phải nắm được thuyết hoạt động lời nói,  
mối quan hệ giữa hoạt động giao tiếp hoạt động nói năng với động cơ nảy sinh  
lời nói. Tuỳ theo nhiệm vụ, phương thức sử dụng người ta chia lời nói thành nhiều  
dạng khác nhau: Lời nói trước tiên được chia thành lời nói bên trong và lời nói bên  
ngoài. Về mặt kết cấu ngữ pháp lời nói bên trong có nhiều điểm khác với lời nói  
bên ngoài. Lời nói bên trong có ý nghĩa quan trọng trong đời sống, sinh hoạt, học  
tập.... Nhà trường có trách nhiệm phát triển ở học sinh cả lời nói bên ngoài và lời  
nói bên trong. Người ta chia lời nói thành khẩu ngữ và bút ngữ. Khẩu ngữ là ngôn  
ngữ của âm thanh. Nó một phương tiện trao đổi thông tin trong xã hội. Nhịp điệu  
lời nói nhanh hay chậm, độ cao hay thấp của giọng nói, sự ngắt đoạn đều để lại ảnh  
hưởng đối với khẩu ngữ. Do đó khẩu ngữ khả năng truyền cảm lớn. Đặc biệt ở  
các lớp đầu cấp phổ thông, khẩu ngữ phát triển trội hơn. người giáo viên Tiểu  
học ta phải biết vận dụng ưu điểm này của khẩu ngữ sử dụng hiệu quả ưu điểm  
này của khẩu ngữ trong tiết kể chuyện.  
Mặt khác, theo quan điểm giao tiếp thì mỗi câu chuyện học sinh kể được  
coi là một ngôn bản. Việc dạy học kể chuyện thực chất dạy các em tạo lập nên  
những ngôn bản bằng lời nói phục vụ cho hoạt động học tập và giao tiếp. thuyết  
giao tiếp ngôn ngữ đã chỉ rõ các bước của quá trình mã hoá ngôn ngữ để sản sinh  
6 /37  
Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy Kể chuyện cho HS lớp 1.  
ra các ngôn bản, dựa vào đó người ta xây dựng quy trình kể chuyện thông qua 4 kỹ  
năng cơ bản.  
- Phân tích đề (yêu cầu kể)  
- Tìm ý, lập dàn ý  
- Dùng từ đặt câu để nói  
- Kiểm tra, phát hiện, sửa lỗi sai  
Các nhân tố giao tiếp được xác định trong bước phân tích đề sẽ quyết định  
tới việc thực hiện những kĩ năng kể chuyện tiếp theo. Chỉ cần thay đổi một trong  
các nhân tố ở đề bài thì chúng ta sẽ nhận được những câu chuyện khác hẳn.  
Chính vì vậy khi dạy học kể chuyện ở tiểu học giáo viên cần phải tính toán, cân  
nhắc đến các nhân tố giao tiếp.  
7 /37  
Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy Kể chuyện cho HS lớp 1.  
CHƯƠNG II : CƠ SỞ THỰC TIỄN  
1. Nhu cầu kể chuyện đối với học sinh tiểu học:  
Trong nhà trường Tiểu học, kể chuyện một nhu cầu thiết yếu của lứa tuổi  
học sinh nhỏ. Từ tuổi lên 3 bập bẹ tập nói các em nhỏ đã thích nghe kể chuyện và  
thích kể cho người khác nghe. Kể chuyện thơ ca là hai môn quan trọng ở các  
lớp Mẫu giáo. Bước vào tuổi học sinh Tiểu học, nhu cầu nghe kể chuyện vẫn  
không hề giảm vẫn tiếp tục tăng thêm, đặc biệt đối với các loại truyện cổ dân  
gian. Tại sao vậy?  
Các nhà nghiên cứu thường trả lời bằng những kiến giải xác đáng mang tính  
chiêm nghiệm của chính bản thân họ. Những truyện kể, truyện dân gian nằm trong  
những nhận thức về thế giới thực tế hội xung quanh của các em. Những tác  
phẩm ấy giúp các em xác lập được một thái độ phù hợp đối với các hiện tượng của  
cuộc sống xung quanh. Truyện cổ tích gắn liền với cái đẹp góp phần phát triển cảm  
xúc thẩm mỹ thiếu chúng không thể có tâm hồn cao thượng, lòng mẫn cảm  
chân thành trước nỗi bất hạnh khổ ải của con người. Nhờ chuyện cổ tích trẻ  
nhận thức được thế giới không chỉ bằng trí tuệ mà còn bằng trái tím. Và trẻ em  
không phải chỉ nhận thức mà còn đáp ứng lại sự kiện hiện tượng của thế giới  
xung quanh, bày tỏ thái độ của mình với các điều thiện ác. Giai đoạn đầu tiên của  
giáo dục tưởng cũng diễn ra nhờ truyện cổ tích... Puskin từng thổ lộ Buổi  
tối, tôi nghe kể chuyện cổ tích và lấy việc đó đắp những thiếu sót trong sự  
giáo dục đáng nguyền rủa của mình. Mỗi truyện cổ tích ấy mới đẹp đẽ làm sao,  
mỗi truyện một bài ca. Đó những lý do giúp chúng ta hiểu học sinh Tiểu học  
lại kể chuyện.  
2. Vị trí, nhiệm vụ của phân môn Kể chuyện trong trường Tiểu học:  
2.1 Vị trí:  
Phân môn Kể chuyện vị trí quan trọng được xếp liền ngay sau phân môn  
Tập đọc của bộ môn Tiếng Việt. Do ranh giới nằm giữa Tiếng Việt Văn nên kể  
chuyện vừa thuộc phạm trù ngôn ngữ Tiếng Việt, vừa thuộc phạm trù nghệ thuật  
văn chương. Theo quy định của chương trình Tiểu học mỗi tuần có 1 tiết kể  
chuyện với yêu cầu cụ thể đối với từng khối lớp.  
2.2 Nhiệm vụ của phân môn kể chuyện lớp 1:  
- Rèn cho học sinh 2 kỹ năng nghe và nói.  
8 /37  
Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy Kể chuyện cho HS lớp 1.  
- Đáp ứng được nhu cầu được nghe kể chuyện, một nhu cầu tâm lý của học  
sinh lớp 1.  
- Giúp học sinh nhớ kể lại được câu chuyện  
- Góp phần cùng các môn học khác phát triển ngôn ngữ, mở rộng vốn sống,  
rèn luyện tư duy lô gic, duy hình tượng cho học sinh.  
- Bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, hình thành nhân cách, đem lại những xúc  
cảm thẩm mỹ lành mạnh cho tâm hồn học sinh.  
2.3 Nội dung chương trình phân môn kể chuyện lớp 1:  
- Nội dung chương trình kể chuyện lớp 1 được chia ra làm 2 phần:  
1) Phần 1: Được dạy kết hợp trong các bài Ôn tậpcủa phân môn Học vần.  
+ giai đoạn này phần kể chuyện theo tranh nhằm giúp nội dung học tập  
của học sinh thêm phong phú, sinh động hấp dẫn. Tên truyện gắn với những âm,  
vần học sinh đã học.  
2) Phần 2: Phần Luyện tập tổng hợp.  
giai đoạn này học sinh tiếp tục được rèn kĩ năng nghe, nói thông qua tiết  
kể chuyện. Việc dạy kể chuyện ở giai đoạn này dựa trên các văn bản tự sự. Cuối  
mỗi tuần có 1 một câu chuyện. Các văn bản truyện dùng để kể chuyện được biên  
soạn lại sao cho phù hợp đối với học sinh lớp 1. Đó những câu chuyện dễ hiểu,  
gắn với các tình tiết đơn giản, độ dài dao động khoảng từ 120 đến 300 chữ. Văn  
bản truyện không được in trong sách giáo khoa chỉ in trong sách giáo viên, dùng  
cho giáo viên nghiên cứu chuẩn bị trước khi dạy tiết kể chuyện. Sách giáo khoa  
của học sinh chỉ thể hiện:  
+ Hoạt động của thầy của trò trong tiết kể chuyện.  
+ Các tranh minh hoạ tình tiết chính của truyện kèm theo các câu hỏi gợi ý  
dưới tranh. Câu hỏi gợi ý dưới tranh là cơ sở giúp học sinh dựa vào đó để tập kể  
lại từng đoạn truyện -> tiến tới tập kể toàn bộ câu chuyện.  
Qua nghiên cứu chương trình SGK Tiếng Việt lớp 1, sách giáo viên lớp 1 tôi  
nhận thấy chương trình SGK, SGV có những ưu điểm hạn chế sau:  
*Ưu điểm:  
- Sách giáo khoa có tranh ảnh đẹp, màu sắc tươi tắn phù hợp với học sinh  
lớp1.  
- Các câu chuyện (tên truyện) chứa vần, tiếng, từ học sinh đã được học.  
- Các văn bản kể chuyện được lựa chọn phù hợp với học sinh lớp 1, thường là  
những câu chuyện có các tình tiết đơn giản hấp dẫn học sinh. Thông qua các câu  
chuyện giáo viên giúp học sinh bước đầu mở rộng tầm nhìn ra thế giới xung quanh,  
9 /37  
Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy Kể chuyện cho HS lớp 1.  
rung động trước cái đẹp, trước những buồn vui, yêu ghét của con người. Mục đích  
của các câu chuyện nhằm giúp các em cảm nhận được tình cảm và thái độ đúng  
đắn của con người Việt Nam. Biết phân biệt đẹp, xấu, thiện, ác, đúng, sai, giáo dục  
các em sự thật thà, lòng dũng cảm, lòng nhân ái, vị tha, biết vâng lời ông bà cha  
mẹ, biết nói năng lịch sự, lễ phép, sống hồn nhiên, tự tin, trung thực.  
- Sách chỉ hoạt động của thầy, của trò. Nội dung văn bản truyện không  
được in trong SGK chỉ được in trong sách giáo viên. Các hình ảnh của tranh minh  
hoạ những nội dung chính của truyện kèm theo câu hỏi dưới mỗi tranh, giúp tạo  
các tình huống giao tiếp kích thích học sinh tập nói (luyện nói).  
* Hạn chế:  
a) Đối với sách giáo khoa: 1 số truyện dài được đưa lên dạy trước.  
dụ: Truyện Cây KhếĐược đưa vào kể ở giai đoạn học vần, thời gian  
dành cho giáo viên và học sinh tập kể chỉ khoảng 8 -> 10'. Truyện Cây khế là 1  
truyện dài, có nhiều tình tiết. Muốn khay tạo được hứng thú nghe kể thì giáo viên  
phải kể chi tiết, thêm ngữ điệu, cử chỉ. Đặc biệt câu chuyện này học sinh hay được  
nghe ông bà kể chuyện ở nhà, nếu giáo viên kể như văn bản truyện đã được lược  
bớt thì câu chuyện không còn được hấp dẫn nữa.  
- Mặt khác các văn bản truyện được biên soạn lại, độ dài dao động khoảng  
từ 120 - 300 chữ nên có một số văn bản truyện bị lược bớt quá nhiều làm cho câu  
chuyện trở lên khô, không hấp dẫn trẻ.  
dụ: Truyện Cây Khế, Tre ngà.... điều này rất bất cập cho giáo viên khi  
giảng dạy muốn kể hay thì bắt buộc giáo viên phải sưu tầm, nghiên cứu văn bản  
đầy đủ. Hơn nữa thời gian dành cho giáo viên và học sinh kể tập kể ở giai đoạn  
này quá ít nếu giáo viên kể hay, đầy đủ chi tiết hấp dẫn trẻ thì có rất ít thời gian để  
cho học sinh tập nói, tập kể.  
Hơn nữa, chương trình kể chuyện 1 có một số văn bản truyện giáo viên rất khó  
hướng dẫn học sinh khai thác nội dung để rút ra ý nghĩa giáo dục của câu chuyện.  
Ví du: Truyện Chia phần.  
- Nội dung câu chuyện: Có hai bác thợ săn đi săn được 3 con thỏ. Khi về họ  
chia phần cho nhau, họ chia đi chia lại nhưng phần của hai người vẫn không đều  
nhau -> dẫn tới cãi cọ nhau. Khi hai bác thợ săn đang cãi cọ nhau xuất hiện nhân  
vật thứ 3 đó là anh thợ kiếm củi. Anh kiếm củi lấy số sóc ra chia (2 bác thợ săn  
mỗi người được 1 con, anh kiếm củi được 1 con.  
10/37  

Tải về để xem bản đầy đủ

doc 37 trang huongnguyen 11/09/2024 730
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy Kể chuyện cho HS Lớp 1", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_nham_nang_cao_chat_luong_day_ke_chuyen.doc