SKKN Một số kinh nghiệm khắc sâu kiến thức văn biểu cảm Lớp 7 THCS
Sự biểu lộ tình cảm, cảm xúc bằng ngôn từ và văn chương đã làm xuất hiện các bài văn, bài thơ, các tác phẩm văn chương sử dụng phương thức biểu cảm. Như vậy cùng với tự sự, miêu tả, thuyết minh thì biểu cảm trở thành một trong các phương thức biểu đạt của con người. Sự xuất hiện của biểu cảm là do nhu cầu cuộc sống và văn biểu cảm đã đáp ứng nhu cầu từ bộc lộ đời sống nội tâm của con người - biểu cảm trong văn chương (ca dao, thơ, truyện…) có một vị trí đặc biệt quan trọng.
ỦY BAN NHÂN DÂN QUẬN ĐỐNG ĐA
PHÒNG GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO QUẬN ĐỐNG ĐA
---***---
Mã SKKN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề tài:
MỘT SỐ KINH NGHIỆM KHẮC SÂU KIẾN THỨC
VĂN BIỂU CẢM LỚP 7 THCS
Lĩnh vực : Văn học
N¨m häc 2014 – 2015
Sáng kiến kinh nghiệm
PHÒNG GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO QUẬN ĐỐNG ĐA
TRƯỜNG THCS THÁI THỊNH
---***---
Mã SKKN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề tài:
MỘT SỐ KINH NGHIỆM KHẮC SÂU KIẾN THỨC
VĂN BIỂU CẢM LỚP 7 THCS
Lĩnh vực
: Văn học
Người thực hiện : Nguyễn Thị Lý
Tổ : Văn Trường THCS Thái Thịnh
N¨m häc 2014 – 2015
1
Sáng kiến kinh nghiệm
Một số kinh nghiệm khắc sâu kiến thức văn biểu cảm ở lớp 7 THCS
A. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong cuộc sống, bộc lộ cảm xúc là nhu cầu thiết yếu của con người. Có nhiều cách
bộc lộ niềm vui và nỗi buồn, những tư tưởng, tình cảm. Một trong những cách bộc lộ ấy là
dùng ngôn từ để bộc lộ tình cảm, cảm xúc. Đó cũng là cách bộc lộ tình cảm rất độc đáo của
con người. Sự biểu lộ đó đã làm xuất hiện các bài văn, bài thơ, các tác phẩm văn chương sử
dụng phương thức biểu cảm.
Như vậy, cùng với tự sự, miêu tả, nghị luận, thuyết minh thì biểu cảm trở thành một
trong các phương thức biểu đạt của con người cũng như văn chương. Sự xuất hiện văn biểu
cảm là do nhu cầu của cuộc sống và văn biểu cảm đã đáp ứng nhu cầu tự bộc lộ đời sống nội
tâm của con người.
Vào năm học 2014-2015, tôi được phân công giảng dạy môn Ngữ văn lớp 7D. Khi dạy
sang phần văn biểu cảm, ngay từ những tiết học đầu tiên, tôi nhận thấy, mặc dù biểu lộ tình
cảm, cảm xúc là một nhu cầu thiết yếu của con người nhưng học sinh nhiều em chưa biết cách
bộc lộ cảm xúc của mình, để khơi gợi lòng đồng cảm nơi người đọc. Khi hành văn, các em
còn lẫn lộn, chưa phân biệt rõ ràng giữa văn biểu cảm với các thể loại văn khác. Làm thế nào
để cho các em nhận thấy rõ yếu tố biểu cảm trong các tác phẩm đã học? Làm thế nào để các
em nắm được các biểu hiện nó trong các thể loại văn chương và biết cách thể hiện cách cảm,
cách nghĩ của mình về một hiện tượng, một sự việc trong cuộc sống. Đó là những vấn đề tôi
trăn trở, muốn cùng được chia sẻ với các đồng nghiệp trong sáng kiến kinh nghiệm này.
B. ĐỐI TƯỢNG, CƠ SỞ, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
* Chương trình Ngữ văn 7 (Văn biểu cảm chiếm 16 tiết trong tổng số 140 tiết của
chương trình)
* Tôi dạy trực tiếp lớp: 7D của trường
2. Cơ sở nghiên cứu:
- Giúp em viết bài văn hay lớp 7 (Trần Đình Chung chủ biên…)
- Một số tài liệu có liên quan đến việc đổi mới giáo dục THCS gồm một số vấn đề
chung về chương trình và sách giáo khoa môn Ngữ văn THCS - Sách giáo viên - Ngữ văn 7 +
Ngữ văn 9.
- Tài liệu văn biểu cảm ở THCS (của Nguyễn Trọng Hoàn - Nguyễn Trí)
3. Phương pháp nghiên cứu:
- Tôi đã kết hợp sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau:
2
Sáng kiến kinh nghiệm
+ Tự mình đúc rút kinh nghiệm qua các tiết dạy trên lớp.
+ Trao đổi với đồng nghiệp qua các tiết giảng dạy trên lớp.
+ Qua nghiên cứu tài liệu + Trò chuyện với học sinh
C. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1. Vai trò của biểu cảm trong văn chương và đặc điểm của văn biểu cảm
Trước hết, học sinh cần hiểu được vai trò của biểu cảm để thấy được vị trí quan trọng của
biểu cảm trong văn chương đồng thời các em cũng phải nắm vững đặc điểm của văn biểu cảm
để làm bài không bị sai thể loại
a. Vai trò của biểu cảm trong văn chương
Sự biểu lộ tình cảm, cảm xúc bằng ngôn từ và văn chương đã làm xuất hiện các bài
văn, bài thơ, các tác phẩm văn chương sử dụng phương thức biểu cảm. Như vậy cùng với tự
sự, miêu tả, thuyết minh thì biểu cảm trở thành một trong các phương thức biểu đạt của con
người. Sự xuất hiện của biểu cảm là do nhu cầu cuộc sống và văn biểu cảm đã đáp ứng nhu
cầu từ bộc lộ đời sống nội tâm của con người - biểu cảm trong văn chương (ca dao, thơ,
truyện…) có một vị trí đặc biệt quan trọng.
b. Đặc điểm của văn biểu cảm
Trong bài văn biểu cảm, cảm xúc và suy nghĩ của người viết phải được làm nổi rõ, phải trở
thành nội dung chính của bài, chi phối và thể hiện qua việc lựa chọn, sắp xếp các ý và bố cục bài
văn. Đây là một đặc điểm quan trọng của văn biểu cảm đồng thời cũng là chỉ dẫn cơ bản về
phương pháp làm bài văn biểu cảm.
Làm văn biểu cảm trình bày suy nghĩ, cảm xúc, sự rung động… của người viết, người ta
có thể lồng những chi tiết miêu tả, những tình tiết của một câu chuyện, những lời phân tích,
giảng giải về một bài thơ, bài văn. Nhưng các suy nghĩ, cảm xúc, sự rung động của người viết
bao giờ cũng chiếm vị trí chủ yếu là nội dung chính của bài. Khi dạy văn biểu cảm, cần cho
học sinh thấy được các cảm xúc và suy nghĩ của người viết là tâm điểm thu hút mọi tình ý, là
nền tảng tạo nên cấu trúc toàn bài giống như hòn đá nam châm hút mạt sắt tạo nên hình ảnh
cụ thể về tư tưởng của nó.
Trong bài văn biểu cảm, cảm xúc và suy nghĩ được phát biểu phải là của cá nhân người
viết mang tính chân thực, tự nhiên, không giả tạo, giàu giá trị nhân văn, thể hiện được các giá
trị đạo đức cao thượng, đẹp đẽ… Do đó, nó làm giàu cho tâm hồn người đọc phát hiện những
điều mới mẻ và đặc sắc của cuộc sống xung quanh, của các tác phẩm văn chương nghệ thuật.
Cảm xúc và suy nghĩ không chỉ mang dấu ấn cá nhân, có tính độc đáo, không được giả
tạo mà còn chứa đựng những giá trị lớn lao, nhân văn, nhân đạo, cao thượng, đẹp đẽ… Chính
điều đó tạo nên giá trị bài viết, tạo chiều sâu trong suy tư của tác giả, làm lay động lòng ta.
3
Sáng kiến kinh nghiệm
Sự bộc lộ cảm xúc, suy nghĩ cá nhân đã dẫn tới một thủ pháp thường được sử dụng
trong các bài văn biểu cảm, đó là việc sử dụng ngôi thứ nhất. Trong nhiều bài văn biểu cảm,
người viết xưng “tôi” kể về tâm trạng, suy nghĩ riêng tư, sâu kín của mình. Điều này chúng ta
có thể thấy rõ qua các bài biểu cảm. Ngôi thứ nhất được sử dụng đã tạo nên tiếng nói tâm tình,
cách nói mang đậm tính tâm sự của bài văn biểu cảm.
Bài văn biểu cảm là sự thể hiện nội tâm của người viết theo phương thức trực tiếp hay
gián tiếp. Người viết thường sử dụng kết hợp các biện pháp: giữa quan sát và trải nghiệm bản
thân với quá trình liên tưởng, tưởng tượng, so sánh, suy ngẫm,… sử dụng các phép đối lập,
tương phản, tương đồng, tăng tiến,… sử dụng ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu cảm xúc… khi
diễn đạt.
Ngôn ngữ văn biểu cảm giàu hình ảnh, câu văn thường dài với nhiều ý luôn luôn mở
rộng theo chiều cảm xúc. Chính nét đặc sắc ấy làm cho văn biểu cảm tăng thêm chất trữ tình,
tăng thêm ma lực của sự hấp dẫn, cám dỗ người đọc.
Đích của văn biểu cảm là khêu gợi sự đồng cảm, đồng tình của người đọc. Chúng ta
thường viết văn biểu cảm trên hai lĩnh vực: đời sống và văn học.
- Văn biểu cảm về đời sống thường là những tình cảm và suy nghĩ tốt đẹp của người
viết về con người, thiên nhiên, Tổ quốc…ví như: Cảm nghĩ về đêm trung thu (Ngữ văn 7, tập 1,
trang 88); Cảm nghĩ về mái trường thân yêu (Ngữ văn 7, tập 1, trang 121); Cảm nghĩ về tình
bạn (Ngữ văn 7, tập 1, trang 129)…Do vậy, văn biểu cảm về đời sống còn gọi là văn trữ tình.
Các thể loại văn học như ca dao trữ tình, thơ trữ tình, tùy bút…đều là văn biểu cảm. Cảm nghĩ
trong văn biểu cảm về đời sống phải trong sáng, chân thực mới khêu gợi được sự đồng cảm của
người đọc.
- Văn biểu cảm về văn học thường là những cảm nhận đúng đắn, sâu sắc của người đọc
về vẻ đẹp hình thức và chiều sâu nội dung của tác phẩm văn học. Kiểu bài phát biểu cảm nghĩ
về một tác phẩm văn học nằm trong phạm vi của văn biểu cảm với tác phẩm văn học. Ví dụ:
Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Cảnh khuya, Rằm tháng giêng (Ngữ văn 7, tập 1, trang 148)…
Cảm nghĩ trong văn biểu cảm về đời sống phải chính xác, sâu sắc, mới mẻ mới khêu gợi được
sự đồng cảm của người đọc.
Ngoài hai loại văn biểu cảm trên, trong nhà trường còn có loại biểu cảm hỗn hợp văn
học và đời sống. Ví như: Từ các bài thơ Bài ca Côn Sơn, cảnh khuya, Rằm tháng giêng, Xa
ngắm thác núi Lư, hãy phát biểu những suy nghĩ và tình cảm của em về niềm vui sống giữa
thiên nhiên ((Ngữ văn 7, tập 1, trang 191);
Từ các văn bản Cổng trường mở ra, cuộc chia tay của những con búp bê, hãy phát tâm sự về
niềm vui, nỗi buồn tuổi thơ hoặc tình cảm với một đồ chơi thưở nhỏ (Ngữ văn 7, tập 1, trang
191)… Cảm nghĩ trong văn biểu cảm về đời sống phải chính xác, sâu sắc, mới mẻ, trong sáng,
chân thực mới khêu gợi được sự đồng cảm của người đọc.
4
Sáng kiến kinh nghiệm
Tóm lại, khi dạy – học văn biểu cảm, giáo viên và học sinh đều phải nắm chắc được các
đặc điểm cơ bản trên, giáo viên tìm hướng truyền thụ thích hợp nhất để học sinh dễ nhận biết
- tiếp thu bài làm một cách có hiệu quả.
2. Phát hiện phương thức biểu cảm trong văn chương:
Ở chương trình Ngữ văn lớp 7, học sinh ngay từ đầu đã được học rất nhiều bài cao
dao, dân ca như: Những câu hát về tình cảm gia đình, Những câu hát về tình yêu quê hương,
Những câu hát than thân và rất nhiều bài thơ trữ tình, văn tự sự đan xen những phương thức
biểu cảm. Bởi vậy khi dạy về văn biểu cảm, tôi lấy một số bài ca dao minh họa cho học sinh
phát hiện ra khái niệm biểu cảm - Có thể lấy 2 bài ca dao thật ngắn sau:
Bài 1: Chỉ gồm một cặp lục bát:
“Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”
Bài 2: Nhiều hơn một cặp lục bát:
Đường vô xứ Huế quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ
Ai vô xứ Huế thì vô…
Các bài ca dao trên có các chi tiết của hiện thực đời sống được miêu tả hoặc tự sự
không? “Có”. Ở bài ca dao 1, đó là cảnh người con gái ra ngõ sau vào buổi chiều để trông về
quê mẹ. Từ “chiều chiều” báo hiệu sự việc mô tả trong câu ca dao diễn ra thường xuyên. Ở
bài 2, đó là cảnh con đường vô xứ Huế có non xanh, nước biếc tạo nên cảnh đẹp như tranh vẽ.
Các bài ca dao trên có diễn tả tình cảm của con người không? “Có”. Bài ca dao thứ
nhất nói đến tâm trạng nhớ mẹ, nhớ quê của người con gái đi làm dâu xứ người. Nỗi nhớ
thương đó bàng bạc khắp bài ca, trĩu nặng xuống trong mấy tiếng cuối cùng “ruột đau chín
chiều”. Từ nhạc điệu, tiết tấu đến hình ảnh về thời gian “chiều chiều”; về không gian “ đứng
ngõ sau”; về hành động “trông về quê mẹ” đều góp phần gợi nên tâm trạng u buồn đó.
Bài ca dao thứ hai giới thiệu cảnh đẹp trên đường vô Huế dẫn đến một lời mời chào
mà như không phải mời chào “Ai vô xứ Huế thì vô”… Một lời mời chào đầy quyến rũ vì cách
gọi ngọt ngào mà lấp lửng rất Huế này. Do làm người nghe, người đọc như bị hút hồn, như vị
vương tơ trời, không thể không đi.
Vậy nên xếp những bài ca dao đó vào phương thức biểu đạt trong các phương thức tự
sự, miêu tả hay biểu cảm”… Chỉ có thể trả lời câu hỏi trên khi xác định rõ: nội dung chính
của các bài ca dao trên là nội dung nào (nội dung hiện thực hay nội dung tâm trạng). Phương
thức chủ yếu sử dụng trong các bài ca dao trên là phương thức gì? (tả hay kể giãi bày cảm
xúc, suy nghĩ?) Xem xét một cách cẩn trọng, chúng ta thấy các bài ca dao trên có nội dung
5
Sáng kiến kinh nghiệm
chính là diễn tả tâm trạng (tâm trạng cô gái lấy chồng xa quê), tâm trạng người xứ Huế mong
muốn đón bạn bè vô chơi), dùng cách giãi bày cảm xúc, suy nghĩ, do đó cả 2 bài đều thuộc
văn biểu cảm.
Thế còn trong văn xuôi? Đoạn văn sau đây tả lại tiếng hát của một người con gái trên đài, hay là
tâm trạng của người chiến sĩ ngoài chiến trường khi nghe trọng hát ấy?
“Trên đài, một người con gái nào đó vừa hát một bản dân ca của đất nước ta trong
đêm khuya. Bây giờ tất cả im lặng rồi, giọt sao ngoài khung cửa đọng lại đứng im, không
nháy nữa, đêm đã đi vào chiều sâu mà vẫn còn nghe âm vang mãi giọng hát của người con
gái lúc nãy. Một giọng hát dân ca ngân nga bát ngát như cánh cò trên đồng lúa miền Nam
chạy tới chân trời, có lúc rụt rè e thẹn như khóe mắt người yêu mới gặp, có lúc tinh nghịch
duyên dáng như những đôi chân nhỏ thoăn thoắt gánh lúa chạy trên những con đường làng
trộn lẫn bóng tre và bóng nắng… Có lẽ không phải là một người con gái đã hát trên đài. Đó
chính là quê hương ta đang lên tiếng hát…”
(Nguyễn Trung Thành - Đường chúng ta đi)
Đoạn văn trên miêu tả giọng hát dân ca của người con gái trên đài nhưng đó lại không
phải là nội dung chính. Đó chỉ là cái cớ để tưởng nói đến những suy nghĩ, những tình cảm
trong lòng người chiến sĩ khi nghe bài dân ca, giọng ca đã chấm dứt, được đi vào chiều sâu,
nhưng lại bắt đầu cho những suy nghĩ về quê hương, về đất nước, về người mẹ… của anh
chiến sĩ. Đây mới là nội dung chính của đoạn văn. Từ đó, ta khẳng định đoạn văn thuộc loại
biểu cảm.
Tóm lại, từ các dẫn chứng trên, chúng ta thấy:
- Ngoài tự sự, miêu tả, nghị luận, thuyết minh thì biểu cảm cũng là phương thức biểu
đạt bằng ngôn từ phản ảnh tình cảm của con người với thế giới xung quanh.
- Trong các phương thức biểu cảm, sự bộc lộ tình cảm, cảm xúc với con người, cảnh
vật, sự việc… mà người viết hướng tới phải trung thành nội dung chính của bài văn.
- Thông qua việc bộc lộ tình cảm, cảm xúc trong bài văn, người viết muốn khêu gợi ở
người đọc sự đồng cảm, sự đồng tình và tán thành, ủng hộ mình. Phương thức biểu cảm có
sức mạnh to lớn trong việc chinh phục nỗi lòng cũng như tâm hồn người đọc.
3. Phân biệt yếu tố biểu cảm trong văn bản và bài văn biểu cảm.
Khi học văn biểu cảm, học sinh cần phân biệt giữa yếu tố biểu cảm trong văn bản và
bài văn biểu cảm.
* Yếu tố biểu cảm là những tình cảm, cảm xúc, những rung động… được người viết
thể hiện rải rác trong một văn bản như tự sự, miêu tả, nghị luận, các cách biểu lộ tình cảm này
chiếm tỷ lệ nhỏ, không làm thay đổi được phương thức biểu đạt chủ yếu của văn bản. Các yếu
tố biểu cảm làm cho bài văn tự sự hoặc miêu tả… có thêm khả năng truyền cảm, tạo thêm sức
hấp dẫn.
6
Sáng kiến kinh nghiệm
* Một bài văn được coi là biểu cảm khi cách bộc lộ tình cảm, cảm xúc, không còn là
một thủ pháp. Nó trở thành phương thức chủ yếu để tạo lập văn bản thể hiện trong toàn bộ tác
phẩm, chi phối mọi phương tiện của văn bản, từ đề tài đến nội dung, từ ý đến lời.
Bên cạnh cách bộc lộ tình cảm, cảm xúc… văn biểu cảm nhiều khi còn sử dụng các
yếu tố tự sự, miêu tả, nghị luận v.v… làm phương tiện để thể hiện tình cảm hoặc làm cầu nối
cho việc bộc lộ tình cảm một cách tự nhiên.
Ví dụ: Ở bài ca dao thứ nhất, sự miêu tả và tự sự (chiều chiều, đứng ngõ sau, trông về
quê mẹ) chỉ là phương tiện để dẫn tới sự bộc lộ nội dung chủ yếu là tình cảm nhớ da diết quê
mẹ của cô gái (ruột đau chín chiều). Như vậy, tự sự và miêu tả ở đây chỉ là các yếu tố nằm
trong bài văn biểu cảm. Ví dụ 2 cũng có điểm tương tự.
Trong thực tế giảng dạy, tôi luôn lưu ý cho học sinh phát hiện phương thức biểu đạt
ngay sau khi các em đọc văn bản và khâu chuẩn bị ở nhà cũng hết sức quan trọng. Bởi vì
nhiều bài văn nếu không đọc kỹ thì khó tìm ra phương thức biểu đạt chủ yếu. Vì khi viết, tác
giả đã tích hợp các phương thức biểu đạt với tỷ lệ không chênh nhau nhiều.
Tóm lại, khi giảng dạy để học sinh từ từ nắm được yếu tố biểu cảm được lồng vào
trong các văn bản theo phương thức biểu đạt khác. Và làm bài văn biểu cảm chủ yếu sử dụng
đồng thời các yếu tố tự sự, nghị luận, thuyết minh là phương tiện để biểu đạt tình cảm, cảm
xúc hoặc dẫn tới sự bộc lộ tình cảm.
4. Các cách thức biểu cảm
HS cần nắm được có hai cách thức biểu cảm là biểu cảm trực tiếp và gián tiếp
a. Biểu cảm trực tiếp
Là trực tiếp nói lên những tình cảm, cảm xúc của mình về đối tượng bằng những từ
gọi tên cảm xúc như : yêu thương, nhớ mong, trân trọng, mong ước….
* Ví dụ: Đoạn văn dùng cách biểu cảm trực tiếp:
“Tôi yêu Sài Gòn da diết…Tôi yêu trong nắng sớm, một thứ nắng ngọt ngào, vào buổi
chiều lộng gió nhớ thương, dưới những cây mưa nhiệt đới bất ngờ. Tôi yêu thời tiết trái
chứng với trời đang ui ui buồn bã, bỗng nhiên trong vắt lại như thủy tinh…” (Sài Gòn tôi yêu
– Minh Hương)
Tác giả Minh Hương đã dùng cách biểu cảm trực tiếp thông qua từ gọi tên cảm xúc “tôi
yêu” để thể hiện tình yêu tha thiết đối với mảnh đất Sài Gòn.
b. Biểu cảm gián tiếp
Là biểu lộ cảm xúc thông qua miêu tả và kể… về đối tượng.
* Ví dụ về đoạn văn dùng cách biểu cảm gián tiếp:
Mùa xuân, cây gạo gọi đến bao nhiêu là chim ríu rít. Từ xa nhìn lại, cây gạo sừng
sững như một tháp đèn khổng lồ: hàng ngàn bông hoa là hàng ngàn ngọn lửa hồng tươi, hàng
ngàn búp nõn là hàng ngàn ánh nến trong xanh, tất cả đều lóng lánh, lung linh trong nắng.
7
Sáng kiến kinh nghiệm
Chào mào, sáo sậu, sáo đen,…đàn đàn lũ lũ bay đi bay về, lượn lên lượn xuống. Chúng nó
gọi nhau trò chuyện, trêu ghẹo và tranh cãi nhau, ồn mà vui không thể tưởng được. Ngày hội
mùa xuân đấy! (Cây gạo – Vũ Tú Nam)
Nhà văn Vũ Tú Nam đã dùng cách biểu cảm gián tiếp: Thông qua miêu tả hình ảnh cây
gạo khi mùa xuân về, gọi đến muôn loài chim, qua cách dùng từ ngữ ví von, so sánh để diễn
tả tình yêu quê hương tha thiết và sự gắn bó với cảnh vật làng quê.
5. Các dạng bài biểu cảm và một vài chú ý của từng dạng
a. Biểu cảm về một sự vật (biểu cảm về đời sống)
Đây là dạng bài cơ bản yêu cầu các em thể hiện những suy nghĩ,đối với sự vật rất
bình thường, quen thuộc với mình. Ví dụ như cây cối, đồ vật, con vật…Biểu cảm về một sự
vật là thể hiện những suy nghĩ, tình cảm…về tất cả những đặc điểm của sự vật: nguồn gốc,
hình dáng, công dụng…
b. Biểu cảm về người thân (biểu cảm về đời sống)
Trong cuộc sống hàng ngày, không gì gần gũi hơn với chúng ta là hình ảnh, sự quan
tâm…của những người thân: ông bà, bố mẹ, anh chị, thầy cô…Biểu cảm về một người thân là
thể hiện những cảm xúc, tình cảm , suy nghĩ của bản thân dành cho người thân đó của mình.
Khi viết bài biểu cảm về người thân, tôi lưu ý các em làm rõ những điều sau:
- Những ấn tượng, tình cảm và suy nghĩ chung của em về ngoại hình của người đó là
gì? (Chú ý đến đặc điểm riêng biệt của người đó)
- Những suy nghĩ, tình cảm, cảm xúc của em về tính cách, con người của người đó là gì?
Em hãy lần lượt nêu các suy nghĩ, tình cảm…chung nhất rồi lis giải tình cảm đó của mình bằng
các biểu hiện trong đời sống hàng ngày của người thân.
c. Biểu cảm về tác phẩm văn học
Đối với dạng bài này, trước hết học sinh cần hiểu tác phẩm văn học là một đối tượng
mang tính nghệ thuật: cảnh, người trong tác phẩm; tình cảm, số phận của con người được thể hiện
trong tác phẩm; nghệ thuật sử dụng ngôn từ; tư tưởng của tác phẩm. Biểu cảm về tác phẩm văn
học nghĩa là trình bày những cảm xúc, tưởng tượng, liên tưởng, suy ngẫm…về các phương diện
ấy của tác phẩm.
Học sinh cần tìm hiểu kĩ về tác phẩm. Các em cần nhớ nội dung, bố cục, nhận vật, sự
kiện (đối với văn xuôi), thuộc được một số đoạn văn hay, thuộc thơ. Đây là yêu cầu gần như
bắt buộc. Sau khi nhớ được tác phẩm, các em cần ghi lại những nội dung cơ bản và nghệ thuật
của tác phẩm để có ấn tượng tổng thể. Nhưng các em không cần biểu cảm về tất cả tác phẩm
mà cần tìm những chi tiết, hình ảnh…hay làm mình xúc động, suy nghĩ, ám ảnh.
Một điểm cần lưu ý nữa là khi biểu cảm về tác phẩm văn học là học sinh phải chú ý tới
hoàn cảnh ra đời của tác phẩm. Đó chính là hoàn cảnh nảy sinh tâm trạng hoặc thức dậy nỗi
niềm con người (với thơ); làm nảy sinh tình huống, nhân vật, tư tưởng…(với truyện). Vì vậy,
8
Sáng kiến kinh nghiệm
tìm hiểu hoàn cảnh ra đời của tác phẩm sẽ giúp em thêm thông tin để lí giải đúng và sâu hơn
nội dung tác phẩm, nhất là nỗi niềm con người được kí thác trong tác phẩm.
d. Biểu cảm hỗn hợp sự vật - đời sống (Dành cho đối tượng là học sinh khá giỏi)
Trong hệ thống đề bài văn biểu cảm ở lớp 7, có những đề có hình thức cấu tạo giống
như: Từ các bài thơ Bài ca Côn Sơn, cảnh khuya, Rằm tháng giêng, Xa ngắm thác núi Lư, hãy
phát biểu những suy nghĩ và tình cảm của em về niềm vui sống giữa thiên nhiên ((Ngữ văn 7,
tập 1, trang 191); Từ các văn bản Cổng trường mở ra, cuộc chia tay của những con búp bê, hãy
phát tâm sự về niềm vui, nỗi buồn tuổi thơ hoặc tình cảm với một đồ chơi thưở nhỏ (Ngữ văn 7,
tập 1, trang 191)... Đó là dạng đề hỗn hợp giữa cảm nghĩ về tác phẩm văn học với cảm nghĩ về
đời sống.
Học sinh cần nắm được trong dạng đề trên, phần: “từ các văn bản…” là phần gợi mở
làm cơ sở định hướng nội dung cho cảm nghĩ ở phần sau; phần “hãy phát biểu cảm nghĩ về…”
là phần trọng tâm của cảm nghĩ trong bài văn.
6. Một vài lưu ý khi giáo viên ra đề văn biểu cảm
Một trong những yếu tố để học sinh làm tốt được bài văn biểu cảm là đề bài biểu cảm
mà giáo viên ra. Đề bài ra phải nằm trong phạm vi vốn sống của các em hoặc là nhưng điều
các em thường quan tâm, trăn trở, mong ước, yêu mến… Lúc ấy các em mới có những bài văn
biểu cảm gây xúc động cho người đọc.
- Đề văn biểu cảm cần đưa ra phạm vi rộng để học sinh tự tìm cho mình một đề tài
riêng phù hợp với vốn sống, tâm trạng và cảm xúc của mình. Có thể thấy được đặc điểm này
của mỗi đề tài sau:
+ Loài cây em yêu.
+ Vui buồn tuổi thơ.
+ Cảm nghĩ về một cảnh vật, quê hương.
Qua những đề bài trên, học sinh có thể tự hỏi: mình yêu loài cây nào để viết nó? Hay
“nỗi vui buồn nào của tuổi thơ mình để lại ấn tượng đậm nhất? hay “cảnh vật quê hương nào
gợi được cho mình nhiều cảm nghĩ?...” Trả lời những câu hỏi đó, mỗi học sinh lại tự đưa ra
cho mình một đề tài riêng. Như vậy, từ một đề bài chung của cô giáo, cả lớp sẽ có ba, bốn
chục đề bài khác nhau.
Có những đề bài phù hợp là điều kiện đầu tiên cần thiết để các em viết một bài văn
biểu cảm tốt. Sau đó người viết sẽ phải tự hỏi ở đề tài có cảm xúc nào, suy nghĩ nào là sâu sắc
nhất, mãnh liệt nhất với mình. Sau đó các em hãy tập trung vào các cảm nghĩ, các rung động,
các tình cảm yêu ghét, vui buồn đó mà diễn tả trên trang giấy.
Bài văn biểu cảm tốt là bài văn có tình cảm, suy nghĩ riêng mà chân thật không đòi hỏi
độ dài. Vì thế giáo viên không nên coi trọng độ dài khi cho điểm.
7. Cách viết câu, dựng đoạn trong bài văn biểu cảm
9
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số kinh nghiệm khắc sâu kiến thức văn biểu cảm Lớp 7 THCS", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- skkn_mot_so_kinh_nghiem_khac_sau_kien_thuc_van_bieu_cam_lop.pdf