SKKN Một số kinh nghiệm về việc dạy môn từ ngữ Lớp 5

Việc dạy từ ngữ ở tiểu học là giúp học sinh mở rộng vốn từ, hiểu nghĩa của từ một cách chính xác, giúp học sinh luyện tập sử dụng từ ngữ trong nói, viết... Những từ ngữ được dạy ở tiểu học gắn với việc giáo dục học sinh tình yêu gia đình, nhà trường, tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động ... làm giàu nhận thức, mở rộng tầm mắt của học sinh, giúp các em nhận thấy vẻ đẹp của quê hương, đất nước, con người, dạy các em biết yêu và ghét. Đáp ứng với mục tiêu đào tạo của bậc tiểu học: giáo dục con người phát triển toàn diện.
PHÒNG GIÁO DỤC ĐÀO TẠO ĐỐNG ĐA  
TRƯỜNG TIỂU HỌC CÁT LINH  
Sáng kiến kinh nghiệm  
Một số kinh nghiệm về việc dạy môn từ ngữ lớp 5.  
Giáo viên: Trần Mạnh Huân  
Giáo viên trường tiểu học Cát Linh  
NĂM HỌC 2004 – 2005  
Phần I: Đặt vấn đề  
I.  
Lý do chọn đtài.  
Tiếng việt nhiều phân môn. Muốn học sinh học tốt về văn cần được rèn  
luyện toàn diện về Tiếng việt mới trở thành học sinh khá và giỏi văn được. vậy  
việc dạy học phân môn từ ngữ rất quan trọng, nó giúp các em hiểu, diễn dạt tư  
tưởng, tình cảm, hoạt động của mình bằng tiếng mẹ đngày càng chính xác,  
phong phú và sinh động hơn.  
Qua thực tế giảng dạy, tôi cho rằng sự ra đời của phân môn từ ngữ ở tiểu  
học cần thiết, chấm dứt dạy từ một cách tản mạn, không hệ thống từ các  
bài tập đọc. Việc dạy từ hiện nay được tiến hành một cách có kế hoạch, mang tính  
chủ động. Thông qua các bài tập trong sách giáo khoa, giáo viên hướng dẫn học  
tập mở rộng vốn từ., phát triển vốn từ, tập giải thích nghĩa của từ, tập sử dụng từ  
trong các khâu: Điền từ, dùng từ đặt câu, viết đoạn văn ngắn... Qua các bài từ  
ngữ, vốn từ của học sinh được mở rộng, tăng cường kĩ năng giải nghĩa từ, kĩ năng  
dùng từ trong hoạt động giao tiếp được hình thành và phát triển. Học sinh có ý  
thức hơn về vấn đề từ ngữ, vấn đề hiểu từ và dùng từ trong thực tiễn nói, viết,  
trong học tập và giáo tiếp. Chủ trương giảng dạy từ ngữ ở tiểu học đã khẳng định  
được vị trí, vai trò của mình trong việc giúp học sinh làm giàu vốn từ, hình thành  
và phát triển ý thức, kĩ năng sử dụng từ. Chính vì vậy tôi luôn trăn trở làm thế  
nào dạy tốt phân môn này đđáp ứng với vị trí vai trò của nó.  
Từ ngữ một phân môn khô và khó, trong các đợt hội giảng, rất ít giáo  
viên đăng kí dạy tiết từ ngữ. Trong đợt hội giảng chào mừng 20-11 năm học 2001  
– 2001 giáo viên đăng kí dạy tiết từ ngữ 2/32. Qua ví dụ trên cho thấy giáo viên  
rất ngại dạy tiết từ ngữ. Nhiều giáo viên còn lúng túng trong việc tổ chức một tiết  
dạy từ ngữ sao cho đúng với yêu cầu, đặc trưng riêng của phân môn và đạt hiệu  
quả dạy học cao. Theo sự đánh giá của giáo viên, một số nội dung giảng dạy  
được trình bày trong sách giáo khoa còn nhiều vấn đchưa sát với học sinh và  
phương pháp dạy phân môn này định hình chưa rõ cho nên giáo viên gặp nhiều  
khó khăn trong giảng dạy.  
Bản thân tôi, qua 22 năm dạy học, dành nhiều thời gian đnghiên cứu,  
thử nghiệm thực tế giảng dạy tôi thấy: Muốn giảng dạy tốt phân môn Tiếng  
việt nói chung và từ ngữ nói riêng đòi hỏi người giáo viên phải vốn từ rộng, tích  
luỹ vốn sống, kinh nghiệm, có trình đchuyên môn, vững vàng thì mới dạy tốt  
môn này, đáp ứng yêu cầu đổi mới về phương pháp dạy học.  
Với ý nghĩa quan trọng của phan môn từ ngữ thực trạng về phương pháp dạy -  
học từ ngữ ở các trường tiểu học hiện nay, tôi mạnh dạn chọn phân môn từ ngữ  
đnghiên cứu thể hiện trong việc đổi mới phương pháp dạy học từ ngữ ở tiểu  
học. Đó cũng chính là lí do tôi chọn đtài: “Một số kinh nghiệm về dạy học  
phân môn từ ngữ ở lớp 5”.  
II. Phạm vi đtài.  
-
-
-
Đối tượng nghiên cứu: Học sinh khối lớp 5, đặc biệt học sinh lớp 5A trường  
tiểu học Cát Linh.  
Môn nghien cứu: Phân môn từ ngữ, tập trung vào phương pháp dạy từ ngữ  
cho học sinh.  
Mục đích nghiên cứu: Tìm ra phương pháp dạy đúng, hay nhất đgiúp học sinh  
học tốt phân môn từ ngữ.  
III.  
Mục tiêu và dặc trưng của bộ môn.  
Học sinh ở tiểu học, vốn từ ngữ của các em còn hạn chế, cần phải được  
bổ sung, phát triển đđáp ứng các nhu cầu học tập, giao tiếp...việc dạy từ cho  
học sinh càng được coi là quan trọng không được bỏ qua.  
Việc dạy từ ngữ ở tiểu học là giúp học sinh mở rộng vốn từ, hiểu nghĩa  
của từ một cách chính xác, giúp học sinh luyện tập sử dụng từ ngữ trog nói,  
viết... Những từ ngữ được dạy ở tiểu học gắn với việc giáo dục học sinh tình yêu  
gia đình, nhà trường, tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động ... làm giàu nhận thức,  
mở rộng tầm mắt của học sinh, giúp các em nhận thấy vẻ đẹp của quê hương, đất  
nước, con người, dạy các em biết yêu và ghét. Đáp ứng với mục tiêu đào tạo của  
bậc tiểu học: giáo dục con người phát triển toàn diện.  
PHẦN II:  
Đánh giá hiện trạng trong năm học  
Đbiện pháp phương pháp dạy -học tốt môn từ ngữ, chúng ta hãy  
nhìn lại đánh giá hiện trạng năm học.  
1.Thuận lợi:  
Trước cải cách giáo dục, trong nhà trường việc dạy từ chủ yếu được thực  
hiện qua các bài văn(trong tập đọc, giảng văn ...) chúng ta tiến hành dạy từ trong  
các bài văn. Như vậy, việc dạy từ ở đây cũng chỉ mang tính ngẫu nhiên, tản mạn  
không có tính chủ động, kế hoạch.  
Trong chương trình và sách giáo khoa cải cách giáo dục, từ ngữ được tách  
thành phân môn độc lập, tiết dạy riêng. Trong chương trình và sách giáo khoa  
tiểu học phân môn từ ngữ nhiệm vụ giúp học sinh hệ thống hoá vốn từ, mở  
rộng, phát triển vốn từ dựa vào các chủ đề, chủ điểm từ ngữ. Trên cơ sở đó, học  
sinh tiến hành luyện tập sử dụng từ qua các kiểu bài tập như điền từ, dùng từ đặt  
câu, viết đoạn văn ngắn... Tóm lại, thể nói từ ngữ được tổ chức dạy riêng,  
trong khuôn khổ của một phân môn Tiếng việt một bước tiến đáng kể của  
chương trình và sách giáo khoa cỉa cách giáo dục.  
Bên cạnh SGK, từ năm 1994 – 1995, còn có “Vở bài tạp Tiếng việt”trong  
đó có bài tập của phân môn từ ngữ. Vở bài tập được dùng kèm với SGK, bổ sung  
cho SGK và được xem là sự điều chỉnh phương pháp dạy học Tiếng việt đnâng  
cao giờ dạy.  
Trong năm học 1994 – 1995 các trường đều được học về vấn đĐổi mới  
SGK Tiếng việt”và từ đó đến nay, chúng ta đã thực hiện nhiều chuyên đề dạy  
Tiếng việt theo phương pháp mới “Lấy học sinh làm trung tâm”, các chuyên đề  
ĐỔi mới phương pháp dạy học Tiếng việt ở tiểu học”. Nhà trường còn được học  
văn bản của Sở về “Thực hiện đổi mới phương pháp dạy - học môn từ ngữ”và tổ  
chức một số tiết dạy “Chuyên đề từ ngữ lớp 4”, “Chuyên đề từ ngữ lớp 5”...  
Tất cả các điều trên tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên dạy tốt phân  
môn từ ngữ.  
2. Khó khăn:  
Trình độ học sinh không đồng đều, ít có học sinh hứng thú với môn học  
này. Khi hỏi ý kiến các em cho rằng môn này khô và khó.  
Tôi đã điều tra chất lượng đầu năm học của học sinh lớp 5A trường tiểu  
học Cát Linh được thể hiện qua bảng thống kê sau:  
Đầu năm học  
Sĩ số  
Môn: Từ ngữ  
2004-2005  
Giỏi  
4
Khá  
10  
Trung bình  
20  
Yếu  
5
49 h/s  
0%  
8,1%  
20,4%  
40,8%  
30,7%  
Như vậy, cho thấy chất lượng học từ ngữ còn thấp.  
Giáo viên chưa chú ý đến đặc trưng của phân môn từ ngữ, vốn từ của giáo  
viên chưa phong phú, chưa đáp ứng được yêu cầu hướng dẫn học sinh mở rộng  
vốn từ, phát triển vốn từ. Cách dạy của nhiều giáo viên trong giờ từ ngữ còn đơn  
điệu, lẹ thuộc một cách máy móc vào sách giáo viên, hầu như rất ít sáng tạo,  
chưa sinh động, chưa cuốn hút được học sinh. Nhiều khi giáo viên còn nặng về áp  
đặt, giảng khô khan. Học sinh tiếp thu bài giảng thụ động, dễ mỏi mệt, ngại học  
từ ngữ.  
Điều kiện giảng dạy của giáo viên có nhiều khó khăn. Ngoài cuốn sách  
giáo viên và sách học sinh các tài liêu tham khảo phục vụ việc dạy học từ ngữ  
hầu như không có. Đdùng dạy học (như tranh ảnh, vật thực và các đdùng học  
tập khác dùng để dạy về nghĩa của từ)còn ít.  
Một số câu hỏi, khái niệm trong SGK còn xa lạ với học sinh (chủ đcác dân tộc  
trên đất nước ta...) hoặc ít nhiều trừu tượng không gần gũi với cuộc sống hằng  
ngày của các em (chủ đề: truyêng thống dân tộc – nhân dân lao động...)có bài  
tập xuất hiện nhiều gây tâm lý nhàm chán, đơn điệu (bài tập Điền từ vào chỗ  
trống”). Việc tách ra thành hai bài gần nghĩa và cùng nghĩa theo tôi là khó dạy và  
không cần thiết.  
Tất cả những nguyên nhân đó nảy sinh tâm lý ngại dạy - học phân môn  
từ ngữ. Vậy chúng ta phải dạy - học phân môn từ ngữ như thế nào?  
Phần III:  
Quá trình triển khai thực hiện đtài  
Chương trình và sách giáo khoa dạy học từ ngữ ở bậc tiểu học thể hiện  
tính thực hành rất rõ. Ở lớp 5 chương trình sách giáo khoa thiết kế hai kiểu bài  
dạy - học cơ bản: Kiểu bài lí thuyết về từ kiểu bài thực hành từ ngữ theo chủ  
đề. Trong đó kiểu bài thực hành từ ngữ theo chủ đề chiếm vị trí chủ đạo, bao trùm  
trong nội dung giảng dạy về từ ngữ. Cụ thể số bài thực hành chiếm hơn một nửa  
số tiết từ ngữ ở lớp 5. Tôi xin trình bày phương pháp giảng dạy từng kiểu bài.  
I.  
1. Nội dung:  
Số bài lý thuyết về từ là 12, trên tổng số 33 bài từ ngữ cả năm học. Về  
Kiểu bài lý thuyết về từ.  
nội dung, các bài lý thuyết giới thiệu cho học sinh lớp 5 một số vấn đề về cấu tạo  
từ Tiếng việt (từ đơn, từ ghép, từ láy)về nghĩa của từ sự phân loại các từ về  
mặt nghĩa (nghĩa đen, nghĩa bóng, từ cùng nghĩa, từ gần nghĩa, từu trái nghĩa, từ  
cùng âm khác nghĩa...). Về cấu tạo các bài lý thuyết về từ trong sách giáo khoa  
Tiếng việt lớp 5 gồm 3 phần:  
Phần I – Bài đọc: Nêu các ví dụ mẫu đoạn văn, đoạn thơ, câu văn, câu  
thơ...trong đó chứa các từ cần dạy, từ đó nêu các câu hỏi gợi ý, hướng dẫn học  
sinh tìm hiểu bài, từng bước dẫn dắt học sinh tới khái niệm cần học.  
Phần II – Bài học: Nêu định nghĩa một số khái niệm thuyết về từ,  
những kiến thức cần dạy cho học sinh, kèm theo các dụ minh hoạ.  
Phần III - Luyện tập: Nêu một số bài tập giúp học sinh thực hành  
luyện tập nhằm củng cố những tri thức thuyết vùa học vận dụng thuyết ấy  
vào hoạt động nói, viết.  
Các trình bày trên rất phù hợp với đặc điểm nhận thức tư duy của học  
sinh tiểu học.  
2. Phương pháp:  
Với những kiểu bài này tôi có những phương pháp dạy như sau:  
* Bước 1: Hướng dẫn học sinh phân tích ví dụ mẫu sau đó giúp học sinh  
trả lời câu hỏi tìm hiểu bài. Trước khi cho học sinh đọc dụ mẫu đphân tích, tôi  
thường giới thiệu xuất xứ, tác giả, nội dung chính của đoạn thơ, đoạn thơ... Ví dụ  
khi dạy bài “Các dạng từ láy” (Tiết 7 – trang 85 – TV tập 2). Tôi giới thiệu cho  
học sinh thấy: Đoạn thơ trích trong tác phẩm “Truyện Kiều” của đại văn hào  
Nguyễn Du, nói về cảnh gia đình Thuý Kiều - một người con gái tài sắc gặp nạn,  
nàng phải bán mình chuộc cha và bắt đầu một cuộc sống “Ba chìm bảy nổi”với  
bao đắng cay, tủi hờn...Hay khi dạy bài “Nghĩa của từ” (tiết 20 – trang 75 – TV  
lớp 5 tập 2). Tôi giới thiệu xuất xứ bài thơ: ở lớp 4 các em đã được học bài ca dao  
cổ Đi cấy”, đđược hạt thóc, người nông dân đã phải đổ biết bao mồ hôi, với  
sự vất vả của những tháng ngày “một nắng hai sương”. Ta “gặp” lại bài thơ trong  
giờ từ ngữ hôm nay để thấy được cái hay trong cách dùng từ... Việc giới thiệu này  
tôi chỉ làm nhanh trong vòng 1 phút nhưng tôi thấy học sinh hiểu rõ ví dụ mẫu,  
đồng thời hướng sự chú ý của học sinh vào bài học. Khi giới thiệu tôi chú ý nói  
hay, diễn cảm đlôi cuốn học sinh. Sau đó tôi gọi một học sinh khá đọc diễn cảm  
đoạn thơ, đoạn văn đó, cả lớp đọc thầm theo. Trước đó tôi giao nhiệm vụ : Khi đọc  
thầm, các con lấy bút chì gạch chân dưới nhũng từ láy hay từ “trông”... Giờ học  
Tiếng việt cần vui vẻ, nhẹ nhàng, thiết thực, gây được hứng thú cho học sinh, mở  
ra những điều mới mẻ cho học sinh... Chính là bắt đầu từ khâu này.  
Tiếp đó tôi đặt các câu hỏi để học sinh tìm hiểu bài, câu hỏi này mang tính  
dẫn dắt, gợi mở để học sinh trả lời theo đúng yêu cầu đặt ra. Ví dụ trong bài “từ  
đơn - từ ghép - từ láy” (tiết 1 – trang 76 – TV lớp 5).Tôi cho học sinh đối chiếu  
các từ đơn có trong đoạn thơ: ai, yêu, các, bằng, bác, cháu... với từ ghép là  
những từ in nghiêng: nhi đồng, cố gắng, thi đua, xứng đáng. Và rút ra nhận xét.  
Từ đơn chỉ một tiếng, từ ghép thường có hai tiếng. Từ đó học sinh dễ dàng trả  
lời được câu hỏi: Các từ in nghiêng trong bài thơ có gì khác với các từ đơn? Sau đó  
tôi cho học sinh đối chiếu các từ láy với nhau để nhận xét đặc điểm về hình thức  
của các tiếng trong từ láy. Học sinh sẽ nhận xét thấy các từ láy này đều có hai  
tiếng, giữa hai tiếng đó có một bộ phận âm thanh giống nhau( ngoan ngoãn),  
hoặc giống nhau hoàn toàn( xinh xinh). Học sinh sẽ trả lời được câu hỏi: Các từ in  
đậm trong đoạn thơ đặc điểm giống nhau?  
Qua việc phân tích ví dụ học sinh đã phát hiện được khái niệm cần nghiên  
cứu trong bài. Giáo viên dễ dàng khái quát thành các kiến thức học sinh cần nhớ.  
* Bước 2: Hướng dẫn học sinh hiểu nắm được nội dung bài học. Tôi  
hướng dẫn học sinh tự rút ra những kết luận , tự xây dựng các định nghĩa về khái  
niệm. Để thực hiện được yêu cầu trên tuỳ theo nội dung, tôi đặt ra một số câu hỏi  
và hướng dẫn học sinh trả lời. Cần phối hợp nhịp nhàng giữa đặt câu hỏi, dẫn dắt  
học sinh trả lời, giảng và gi bảng. dụ khi dạy bài: Từ tượng thanh( tiết  
12_trang 95 _ TV5 tập 1) tôi đã hỏi học sinh: Thế nào là từ tượng thanh? Học  
sinh trả lời _ giáo viên sửa _ ghi bảng ( Từ phỏng tiếng người , loài vật hoặc  
các tiếng động gọi từ tuợng thanh).  
Lấy những từ tượng thanh mô phỏng tiếng người? (Oa, oa, thì thào, the  
thé, sang sảng, khúc khích...) . Lấy dụ từ tượng thanh mô phỏng tiếng loài vật  
(Meo meo, ăng ẳng, líu lo, be be,...). Từ tượng thanh mô tả tiếng động (loảng  
xoảng, thình thịch, lách cách, lộp độp...). Sau đó cho vài học sinh đọc để nhớ khái  
niệm và cho thêm ví dụ.  
Dạy bài “Nghĩa của từ” tôi đặt câu hỏi: Thế nào là nghĩa đen? (nghĩa vốn  
của từ). Thế nào là nghĩa bóng? (nghĩa được hiểu rộng ra từ nghĩa đen). Từ  
những dụ về nghĩa bóng em có nhận xét gì? (Mỗi từ Tiếng việt thể một  
hoặc nhiều nghĩa bóng).  
Dạy bài “Từ đơn, từ ghép, từ láy” tôi nêu một số câu hỏi: Từ như thế nào  
gọi từ đơn? Trong bài thơ “Thư trung thu” của Bác Hồ, những từ nào là từ  
đơn? Kể ra những từ đơn chỉ các đồ vật trong phòng học này? Từ như thế nào được  
gọi từ ghép? Trong bài “Thư trung thu” những từ nào là từ ghép? Kể ra những  
từ ghép nói về việc học tập? Từ như thế nào gọi từ láy? Tìm một số từ láy nói  
về đức tính tốt của người học sinh.  
Bước 3: Hướng dẫn học sinh thực hành luyện tập.  
Loại bài tập này dùng vào việc thực hành luyện tập của học sinh, giúp  
học sinh củng cố, khắc sâu kiến thức thuyết vận dụng ấy vào hoạt động nói  
viết. Ở phần này tôi luôn gợi ý dẫn dắt học sinh cách làm chứ không làm thay  
hoặc phó mặc học sinh. Tôi thường gọi 1,2 em đọc to rõ ràng yêu cầu của bài tập  
để cả lớp cùng nghe, tôi hướng dẫn học sinh lần lượt xác định từng yêu cầu của  
bài tập.Ví dụ bài tập” Tìm 4 từ láy đôi dùng để tả cảnh vật thiên nhiên. Đặt câu có  
nội dung miêu tả cảnh vật thiên nhiên đó.” TV5-Tập 1- trang 87) Tôi gợi ý: Yêu  
cầu thứ nhất: tìm 4 từ láy đôi- nên tìm 4 kiểu từ láy đã học dùng để tả cảnh thiên  
nhiên(ví dụ ồn ào, rập rờn, lăn tăn, lồng lộng...) tôi gợi ý tiếp: em tưởng tượng  
đến màu sắc, âm thanh, dáng vẻ... gắn liền với những chi tiết trong cảnh vật, từ  
đó sẽ tìm được từ láy đôi. Ví dụ: bầu trời cao lồng lộng, Mây trắng nhởn nhơ, Mặt  
hồ gợn sóng lăn tăn, chim chóc ríu rít, ong bướm rập rờn... Yêu cầu thứ 2, đặt 4  
câu tách biệt cũng được, nhưng tốt nhất là 4 câu cùng tập tru ng vào tả một cảnh  
thiên nhiên nào đó.  
Đối với bài” Dùng từ đặt câu theo nghĩa đen, nghĩa bóng.” Trước hết tôi  
xác định cho học sinh nghĩa đen của từ, rồi từ nghĩa đen xuy ra nghĩa bóng. Danh  
từ “ nhà” ( nghĩa đen: chỉ ngôi nhà có mái, tường dùng để ở, nghĩa bóng: gia  
đình.) Động từ đi”: nghĩa đen : sự di chuyển bằng chân của người hay động vật,  
nghĩa bóng: đi bộ, chuyển công tác đi, đi mất... Tính từ ngọt’ : nghĩa đen: vị  
ngọt của đường, hoa quả, nghĩa bóng: nói ngọt, rét ngọt...  
Từ gợi ý như vậy học sinh đã tìm được những câu văn hay:  
- Mái nhà tôn nhưng cũng đche nắng che mưa. ( Nhà với nghĩa đen.)  
- Hè vừa qua, cả nhà con đi tắm biển ở Vũng Tàu .( Nhà với nghĩa bóng.)  
- Nó đi còn tôi thì chạy.( Đi với nghĩa đen.)  
- Những đàn chim bay đi tránh rét.( Đi với nghĩa bóng)  
- Quả cam này rất ngọt.( Ngọt : nghĩa đen).  
- Trời hôm nay rét ngọt. ( Ngọt: nghĩa bóng.)  
Cuối cùng là khâu kiểm tra, đánh giá kết quả làm bài tập của học sinh.Tôi  
đã sử dụng nhiều hình thức: Sử dụng các ví dụ mẫu đã cung cấp, lời giải mẫu của  
minh cho học sinh đối chiếu bài làm hay gọi học sinh lên bảng làm, gọi học sinh  
chữa miệng, đổi chéo vở cho nhau... Từng bước hình thành cho học sinh ý thức,  
thói quen và năng lực tự phát hiện, tự sửa chữa các lời trong phần bài giải của  
mình.  
II- Kiểu bài thực hành từ ngữ theo chủ đề.  
1. Nội dung: Các baì từ ngữ theo chủ đnày được trình bày làm 2 phần. Phần 1  
phần từ ngữ” đưa ra một bảng những cần đưa vào vốn từ tích cực của học  
sinh. Từ ngữ này được liệt kê làm hai nhóm: Danh từ ở trên, động từ , tính từ ở  
dưới nhưng có thể tách danh từ thành 2 dòng nếu bài là một chủ đghép ( ví dụ  
bài “ Chim rừng, thú rừng”) và tách động từ, tính từ ra làm 2 dòng. Trong một số  
bài còn có dòng thứ ba là dòng ghi những thành ngữ. Phần thứ 2 là phần luyện  
tập gồm các bài tập dạy nghĩa, hệ thống hoá và giúp học sinh luyện tập sử dụng  
từ ngữ.  
2. Phương pháp:  
a.Dạy mục từ ngữ ”:  
Ở lớp 5 có nhiều từ ngữ hơn, phạm vi từ ngữ cũng rộng hơn, tương ứng  
với các chủ đề cũng phong phú hơn lớp 2,3,4. Khi dạy tôi dùng một số câu hỏi  
hướng dẫn học sinh hệ thống hoá cá từ ngữ theo chủ đề. dụ bài “Quân đội nhân  
dân” ( tiết 23- trang 82- TV5 tập 2.) Hỏi học sinh:  
Kể tên các đơn vị bộ đội? ( Tiểu đội, trung đội, đại đội ...)  
Các đơn vị bộ đội thường làm nhiệm vụ gì? ( Canh gác, luyện tập , trực  
ban , trực chiến , trinh sát ...)  
Bài” Các dân tộc trên đất nước ta ” ( tiết 27- trang 90-TV5 tập 2). Hỏi học  
sinh:  
Kể tên các dân tộc trên đất nước ta mà em biết ? ( Kinh, Tày, Nùng, Thái  
, Dao, Mường, HMông, Bana...)  
vùng miền núi phía Bắc, làng còn gọi là gì? ( Bản). Còn ở miền núi phía  
Nam- Tây nguyên làng gọi là gì? ( Buôn).  
Việc đặt ra câu hỏi hướng dẫn học sinh hệ thống hoá từ ngữ sẽ hình thức  
được ở học sinh ý thức về tính hệ thống của từ ngữ, hình thành thói quen, tư duy  
hệ thống cho học sinh.  
b. Dạy mục Luyện tập”:  

Tải về để xem bản đầy đủ

doc 17 trang huongnguyen 17/02/2025 100
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số kinh nghiệm về việc dạy môn từ ngữ Lớp 5", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docskkn_mot_so_kinh_nghiem_ve_viec_day_mon_tu_ngu_lop_5.doc