SKKN Rèn kĩ năng giải Toán về chuyển động đều cho học sinh Lớp 5
Vậy phương pháp dạy học như thế nào để cho tiết học vừa nhẹ nhàng, vừa hiệu quả giúp cho các em lĩnh hội được kiến thức lại thích học môn toán ? Sao cho với các em "Mỗi ngày đến trường là một ngày vui", góp phần xây dựng "Trường học thân thiện, HS tích cực" ? Đó là câu hỏi mà tôi đã trăn trở trong nhiều năm qua. Căn cứ vào những lí do trên, tôi đã nghiên cứu và tìm tòi được một số giải pháp giúp học sinh nắm vững phương pháp giải đặc trưng cho từng dạng bài tập, biết cách tóm tắt và dễ dàng vận dụng vào việc giải toán góp phần nâng cao chất lượng dạy và học. Tôi đã nghiên cứu và vận dụng thành công đề tài: “Rèn kĩ năng giải toán về chuyển động đều cho học sinh lớp 5”
giải toán về chuyển động đều cho học sinh lớp 5”- Tác giả: Phù
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÀ NỘI
MÃ SKKN
(Dùng cho hội đồng chấm của Sở)
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
RÈN KĨ NĂNG GIẢI TOÁN
VỀ CHUYỂN ĐỘNG ĐỀU CHO HỌC SINH LỚP 5
Lĩnh vực: Môn Toán
Cấp học: Tiểu học
Tác giả: Phùng Thị Minh Hoa
Giáo viên trường Tiểu học Phú Phương, Ba Vì, Hà Nội
NĂM HỌC: 2017 – 2018
1/38
“ Rèn kĩ năng giải toán về chuyển động đều cho học sinh lớp 5”- Tác giả: Phùng Thị Minh Hoa
PHẦN MỘT: MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Trong chương trình toán ở Tiểu học, giải các bài toán chiếm một vị trí rất
quan trọng. Việc giải toán giúp học sinh củng cố, vận dụng các kiến thức, rèn
luyện kĩ năng tính toán. Thông qua việc giải toán cho học sinh, giáo viên có thể
dễ dàng phát hiện những mặt mạnh, mặt yếu của từng em về kiến thức, kĩ năng
và tư duy để từ đó giúp học sinh phát huy được tính chủ động sáng tạo trong học
tập.
Các bài toán về chuyển động đều là một mảng kiến thức rất quan trọng được
ứng dụng nhiều trong thực tế và có tác dụng rất lớn trong việc phát triển tư duy
cho học sinh. Thông qua các bài toán này, học sinh được rèn luyện các kĩ năng:
phân tích, tổng hợp, … là những kĩ năng không thể thiếu được của người học
toán. Học tốt dạng toán này giúp học sinh rèn kĩ năng đổi đơn vị đo thời gian, kĩ
năng tính toán, kĩ năng giải toán có lời văn. Đồng thời là cơ sở tiền đề giúp HS
học tốt chương trình toán và chương trình vật lí ở các lớp trên.
Chương trình toán lớp 5 hiện hành, toán chuyển động đều là loại toán mới và
khó đối với học sinh lớp 5. Nhưng thời lượng chương trình dành cho loại toán
này nói chung là ít : 3 tiết bài mới, 3 tiết luyện tập sau mỗi bài mới, 3 tiết luyện
tập chung. Sau đó phần ôn tập cuối năm một số tiết có bài toán nội dung chuyển
động đều đan xen với các nội dung ôn tập khác. Do vậy các em gặp khó khăn
khi giải toán.
Vậy phương pháp dạy học như thế nào để cho tiết học vừa nhẹ nhàng, vừa
hiệu quả giúp cho các em lĩnh hội được kiến thức lại thích học môn toán ? Sao
cho với các em "Mỗi ngày đến trường là một ngày vui", góp phần xây dựng
"Trường học thân thiện, HS tích cực" ? Đó là câu hỏi mà tôi đã trăn trở trong
nhiều năm qua. Căn cứ vào những lí do trên, tôi đã nghiên cứu và tìm tòi được
một số giải pháp giúp học sinh nắm vững phương pháp giải đặc trưng cho từng
dạng bài tập, biết cách tóm tắt và dễ dàng vận dụng vào việc giải toán góp phần
nâng cao chất lượng dạy và học. Tôi đã nghiên cứu và vận dụng thành công đề
tài: “Rèn kĩ năng giải toán về chuyển động đều cho học sinh lớp 5”
2. Mục đích nghiên cứu:
* Mục đích đối với giáo viên: Đề tài nhằm nâng cao chất lượng dạy học,
nâng cao nhận thức của bản thân, giúp giáo viên có phương pháp dạy học tích
2/38
“ Rèn kĩ năng giải toán về chuyển động đều cho học sinh lớp 5”- Tác giả: Phùng Thị Minh Hoa
cực, khắc phục những hạn chế của bản thân.
* Mục đích đối với học sinh: Giúp cho học sinh nắm có phương pháp giải toán
về chuyển động đều, biết cách phân tích, suy luận, tổng hợp, … để vận dụng giải
toán đạt kết quả cao. Từ đó giúp các em yêu thích, ham học toán, phát huy tính
vai trò tích cực, sáng tạo, … đẩy mạnh phong trào thi đua học tập tốt của lớp,
của trường.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu:
- Khách thể nghiên cứu: Phong trào học tập của học sinh ở trường Tiểu học.
- Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp giúp học sinh có kĩ năng giải toán về
chuyển động đều cho học sinh lớp 5.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Tìm hiểu nội dung và phương pháp dạy “giải toán về chuyển động đều”
thông qua các tài liệu tham khảo.
- Tìm hiểu các dạng toán khó trong sách giáo khoa, trong vở bài tập, sách
nâng cao.
- Phân tích thực trạng của học sinh khi tiếp thu kiến thức “giải toán về
chuyển động đều”, đề xuất các biện pháp giúp học sinh nắm vững các dạng toán
cơ bản “giải toán về chuyển động đều”. Tìm ra các phương pháp giải nhanh,
tổng quát để giúp học sinh có kĩ năng tính toán nhanh, chính xác. Từ đó giúp
người thầy phát hiện ra học sinh có năng khiếu toán để kịp thời bồi dưỡng.
- Làm tài liệu tham khảo cho đồng nghiệp, giúp cho giáo viên có giải pháp
phù hợp.
5. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu lý luận: đọc sách, tài liệu tham khảo, văn bản thu
thập tư liệu
- Phương pháp điều tra kết hợp phương pháp quan sát trực quan, đàm thoại,
giảng giải, luyện tập thực hành, thảo luận, tổ chức trò chơi
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm
6. Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu:
- Giới hạn nội dung, chương trình: giải toán về chuyển động đều lớp 5
- Đối tượng: áp dụng cho học sinh lớp 5A
- Thời gian: Đề tài được thực hiện trong 2 năm học 2016 – 2018.
3/38
“ Rèn kĩ năng giải toán về chuyển động đều cho học sinh lớp 5”- Tác giả: Phùng Thị Minh Hoa
PHẦN HAI: NỘI DUNG
Chương I: NGHIÊN CỨU CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở khoa học:
- Căn cứ vào mục tiêu dạy học môn Toán nói chung và chuẩn kiến thức kĩ
năng cần đạt của giải toán về chuyển động đều .
- Giải toán về chuyển động đều là mảng kiến thức mới và tương đối khó đối
với học sinh lớp 5. Dạy giải các bài toán chuyển động đều góp phần cung cấp
vốn hiểu biết về cuộc sống cho học sinh tiểu học. Các kiến thức trong toán
chuyển động đều rất gần gũi với thực tế hàng ngày như: tính quãng đường, thời
gian, vận tốc ... Khi học dạng toán này các em được củng cố nhiều kiến thức kỹ
năng khác như: các đại lượng có quan hệ tỉ lệ; kỹ năng tóm tắt bài toán bằng sơ
đồ đoạn thẳng ; kỹ năng tính toán …
1.2. Cơ sở thực tiễn:
Trong chương trình môn toán lớp 5, chuyển động đều là dạng toán về các
số đo đại lượng. Nó liên quan đến 3 đại lượng là quãng đường (độ dài), vận tốc
và thời gian. Bài toán đặt ra là: Cho biết một số trong các yếu tố hay mối liên hệ
nào đó trong chuyển động đều. Tìm các yếu tố còn lại.Vì vậy, mục đích của việc
dạy giải toán chuyển động đều là giúp học sinh tự tìm hiểu được mối quan hệ
giữa đại lượng đã cho và đại lượng phải tìm. Mô tả quan hệ đó bằng cấu trúc
phép tính cụ thể, thực hiện phép tính, trình bày lời giải bài toán.
Khi giải toán chuyển động đều, học sinh dễ mắc sai lầm do không nắm vững
kiến thức cơ bản; tư duy chưa linh hoạt, đặc biệt vốn ngôn ngữ của các em còn
rất hạn chế. Việc giải các bài toán về chuyển động đều không những đòi hỏi ở
học sinh khả năng tư duy linh hoạt, sáng tạo, mà còn đòi hỏi ở các em khả năng
ngôn ngữ phong phú nhằm để hiểu được nội dung bài toán và diễn đạt bài giải
của mình một cách rõ ràng.
Chương II:
ĐIỀU TRA THỰC TRẠNG HỌC SINH TRONG QUÁ TRÌNH HỌC
“GIẢI TOÁN VỀ CHUYỂN ĐỘNG ĐỀU”
2.1. Những khó khăn mà học sinh thường gặp phải:
- Học sinh chưa hiểu rõ bản chất, mối quan hệ giữa các đại lượng: quãng
đường, vận tốc, thời gian....
- HS khó định dạng bài tập. Đối với dạng bài tập về 2 vật chuyển động
cùng chiều, ngược chiều: sách giáo khoa chỉ thể hiện ra dưới hình thức bài tập
mẫu, yêu cầu học sinh vận dụng tương tự . Vì học sinh không phân tích rõ được
4/38
“ Rèn kĩ năng giải toán về chuyển động đều cho học sinh lớp 5”- Tác giả: Phùng Thị Minh Hoa
bản chất bài toán, dẫn đến không xác định được dạng bài tập.
- Nhiều em xác định được dạng toán nhưng lại vận dụng một cách rập
khuôn, máy móc mà không hiểu được thực chất của vấn đề cần giải quyết nên
khi gặp bài toán có cùng nội dung nhưng lời lẽ khác đi thì các em lại lúng túng.
2.2. Thực trạng của việc dạy học Giải toán về chuyển động đều
Qua thực tiễn giảng dạy nhiều năm, tôi nhận thấy:
* Về việc dạy của giáo viên: Trong quá trình dạy học, giáo viên đóng vai trò
hướng dẫn, tổ chức cho học sinh tự tìm ra kiến thức. Nhưng dạy như thế nào để
học sinh hiểu bài sâu, để biết vận dụng các cách giải linh hoạt khi làm bài thì đó
lại là một điều rất khó. Thực tế cho thấy nhiều thầy cô chưa thật triệt để trong
việc đổi mới phương pháp dạy học, thường xem nhẹ khâu phân tích các dữ liệu,
bài toán đôi khi còn lệ thuộc vào sách giáo khoa, chưa chú trọng làm rõ bản chất
toán học nên học sinh chỉ vận dụng công thức làm bài chứ chưa có sự sáng tạo
trong từng bài toán tình huống chuyển động cụ thể. Giáo viên giảng giải nhiều
nhưng lại chưa khắc sâu được kiến thức của bài dẫn đến học sinh hiểu bài còn
mơ hồ. Mặt khác, giáo viên còn chưa coi trọng việc phân loại kiến thức một
cách hệ thống nên các em rất mau quên.
* Về việc học của học sinh:
Học sinh tiếp cận với toán chuyển động đều còn mơ hồ, chưa hiểu bản chất
của vấn đề. Đặc biệt với các dạng bài mà đơn vị đo thời gian hoặc đơn vị đo
quãng đường với đơn vị đo vận tốc khác nhau thì rất nhiều em làm sai. Các em
chưa nắm được phương pháp giải theo từng dạng bài khác nhau. Trong quá trình
giải toán, học sinh còn sai lầm khi đổi đơn vị đo thời gian, không chặt chẽ, thiếu
lôgíc, chưa phân biệt rõ thời điểm gặp nhau và thời gian đi được, điều đó dẫn
đến sự nhầm lẫn đáng tiếc trong quá trình giải toán.
Để kiểm tra khả năng vận dụng của học sinh, tôi đã tiến hành khảo sát chất
lượng học sinh lớp 5A và 5B (đã học xong chương trình lớp 5 nhưng chưa áp
dụng đề tài) như sau:
Bài 1: (3 điểm) Viết vào ô trống trong bảng sau:
s
v
t
147 km
165 km
36 km/giờ
27,5 km/giờ
3 giờ
40 phút
Bài 2: (3 điểm): Lúc 7 giờ xe máy đi từ A đến B với vận tốc 36 km/giờ. Đến 9
giờ ô tô cũng đi từ A đến B với vận tốc 60 km/giờ. Hỏi đến mấy giờ ô tô đuổi
kịp xe máy?
Bài 3: (3 điểm) : Một chiếc thuyền đi xuôi dòng nước từ A đến B mất 45 phút
và ngược dòng từ B đến A mất 54 phút. Biết vận tốc của thuyền lúc xuôi dòng là
5/38
“ Rèn kĩ năng giải toán về chuyển động đều cho học sinh lớp 5”- Tác giả: Phùng Thị Minh Hoa
48 km/giờ. Tính vận tốc của thuyền khi ngược dòng nước ?
Bài 4: (1 điểm): Lúc 6 giờ 45 phút, ô tô đi từ A đến B với vân tốc 50 km/giờ.
Cùng lúc đó một xe máy đi từ B về A đi với vận tốc bằng 60 % vận tốc của ô tô.
Hai xe gặp nhau lúc 8 giờ 30 phút. Tính độ dài quãng đường AB ? biết rằng trên
đường đi về A, xe máy có nghỉ 15 phút .
Kết quả bài làm của học sinh như sau:
Lớp Số bài
điểm 9,10
điểm 7,8
điểm 5,6
điếm dưới 5
SL
%
0
SL
%
20
24
SL
%
20
24
SL
15
13
%
60
52
5A
5B
25
25
0
0
5
6
5
6
0
Tôi nhận thấy bài làm của học sinh có những sai lầm sau:
Ở bài 1: Khi tính quãng đường, một số em không đổi đơn vị đo mà tính ngay:
36
40 = 1440 km; có em lại lúng túng trong việc đổi đơn vị đo thời gian, vận
tốc.
Ở bài 2: Một số em chưa phân biệt rõ thời điểm gặp nhau và thời gian đi
được nên gặp khó khăn khi làm bài.
Ở bài 3: học sinh gặp khó khăn khi đổi đơn vị đo, chưa hiểu rõ mối quan hệ
giữa vận tốc và thời gian nêu trên cùng một quãng đường. Bài này có 2 cách
giải, nếu học sinh hiểu rõ mối quan hệ giữa vận tốc và thời gian thì các em giải
được dễ dàng.
Ở bài 4: Đây là bài toán mức 4 đòi hỏi các em phải vận dụng sáng tạo để giải
toán. Bài toán cho biết trên đường đi về A, xe máy có nghỉ 15 phút nên có 2
trường hợp xảy ra:
+ Trường hợp thứ nhất : xe máy nghỉ 15 phút trước khi gặp ô tô.
+ Trường hợp thứ hai : xe máy nghỉ 15 phút sau khi gặp ô tô.
Đa số các em tính thời gian hai xe gặp nhau là:
8 giờ 30 phút – 6 giờ 45 phút – 15 phút = 1 giờ 30 phút
Đó là trường hợp là xe máy nghỉ 15 phút trước khi gặp ô tô: thời gian xe
máy đi đến lúc gặp xe máy là 1 giờ 30 phút nhưng thời gian ô tô đi đến lúc gặp
xe máy là 1 giờ 45 phút. Còn một trường hợp chưa xét đến là xe máy nghỉ 15
phút sau khi gặp ô tô. Vì vậy mà các em đã mắc phải “bẫy” của bài toán. Đối với
các bài toán có nhiều khả năng (hay trường hợp) xảy ra chỉ được coi là bài giải
đúng và đầy đủ nếu các em biết xét tất cả mọi trường hợp có thể xảy ra trong
tình huống đã cho.
Trước thực trạng trên, nhiệm vụ của đề tài không chỉ cung cấp phương pháp
giải toán về chuyển động đều cho học sinh đại trà mà còn bồi dưỡng học sinh
giỏi, nâng cao chất lượng học tập , góp phần phát triển tư duy toán học cho HS.
6/38
“ Rèn kĩ năng giải toán về chuyển động đều cho học sinh lớp 5”- Tác giả: Phùng Thị Minh Hoa
CHƯƠNG III : CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN VÀ KẾT QUẢ
3.1. Các biện pháp thực hiện : ( 6 biện pháp)
Để học sinh làm tốt toán về chuyển động đều, tôi đã thực hiện 6 biện pháp
như sau:
Biện pháp 1 : Rèn cho học sinh nắm vững cách đổi đơn vị đo thời gian, đơn
vị đo vận tốc, các phép tính với số đo thời gian và hiểu ý nghĩa của chúng.
Ở lớp 4 các em đã được học cách đổi đơn vị đo thời gian, học sinh cần nắm
vững bảng đơn vị đo thời gian, mối liên hệ giữa các đơn vị đo cơ bản:
1 ngày = 24 giờ
1 giờ = 60 phút
1 phút = 60 giây
Lên lớp 5 các em tiếp tục được ôn lại và học sâu hơn về đổi đơn vị đo thời
gian:
1.1 Rèn cho học sinh nắm vững cách đổi đơn vị đo thời gian
a) Cách đổi từ đơn vị nhỏ ra đơn vị lớn:
* Ví dụ : Đổi 30 phút = … giờ
1
+ Hướng dẫn HS tìm "tỉ số giữa 2 đơn vị" . Tỉ số của 2 đơn vị là
60
1
( Vì 1 giờ = 60 phút, nên 1 phút =
giờ )
60
1
1
+ Ta nhân số phải đổi với tỉ số của 2 đơn vị: 30
= = 0,5
60
2
1
Vậy 30 phút = giờ = 0,5 giờ.
2
b) Cách đổi từ đơn vị lớn ra đơn vị nhỏ:
2
* Ví dụ : Đổi giờ = … phút
;
0,5 giờ = ... phút
3
2
+ Đổi giờ = … phút . Ta nhân số phải đổi với tỉ số của 2 đơn vị:
3
Vì 1 giờ = 60 phút, nên tỉ số của 2 đơn vị là 60
2
3
2
3
Vậy
giờ = 40 phút. ( do 60
= 40)
Hoặc đổi: 0,5 giờ = ... phút
Ta lấy 60 0,5 = 30 phút
Kết luận : Muốn đổi các số đo thời gian từ đơn vị nhỏ sang đơn vị lớn hoặc
ngược lại, ta lấy số cần đổi nhân với tỉ số của 2 số đó.
* Bài tập áp dụng :
1. Viết số thích hợp vào chỗ chấm:
7/38
“ Rèn kĩ năng giải toán về chuyển động đều cho học sinh lớp 5”- Tác giả: Phùng Thị Minh Hoa
6 phút = ... giây
; 3,6 giờ = ... phút
2
5
3 giờ 36 phút = ... giờ
;
phút = ... giây
3
ngày = ... giờ
2,5 năm = ... tháng
4
2. Viết số thập phân thích hợp vào chỗ chấm
2 giờ 12 phút = ... giờ
90 giây = ... phút
; 2,5 giờ = ... phút
2
5
;
;
phút = ... giây
1 ngày 18 giờ = ... ngày
4 phút 48 giây = ... phút
c) Cách đổi đơn vị đo vận tốc:
* Từ km/giờ sang km/phút, sang m/phút
- Ví dụ: 120 km/giờ = … km/phút = ... m/phút.
+ Bước 1: Thực hiện đổi từ km/giờ sang km/phút
Thực hiện đổi 120 km/giờ = …….km/phút
Giáo viên cần cho học sinh hiểu 120 km/giờ có nghĩa như thế nào?
Tức 1 giờ ( hay 60 phút) thì đi được 120 km
Vậy 1 phút đi được bao nhiêu km? ( 120 : 60 = 2 )
Vậy: 120 km/giờ = 2 km/phút
Ghi nhớ: Muốn đổi từ km/giờ sang km/phút ta lấy số phải đổi chia cho 60.
+ Bước 2: Thực hiện đổi từ km/phút sang m/phút.
Đổi 2 km/phút = … m/phút.
Học sinh cần hiểu 2 km/phút có nghĩa như thế nào?
Tức 1 phút đi được 2 km ( hay 2000 m)
Vậy 2 km/phút = 2000 m/phút.
Ghi nhớ: Muốn đổi từ km/phút sang m/phút ta chỉ việc đổi số đo độ dài sang mét
Vậy 120 km/giờ = 2 km/phút = 2000 m/phút.
* Từ m/phút sang km/phút, sang km/giờ.
- Ví dụ: 2000 m/phút = … km/phút = … km/giờ.
Cần cho học sinh nêu cách hiểu số đo đơn vị đó có nghĩa như thế nào? Và nêu
cách làm.
2000 m/phút nghĩa là: 1 phút đi được 2000m (hay 2 km )
Vậy:
60 phút (hay 1 giờ) đi được bao nhiêu km? ( 2
60 = 120 )
Do vậy 2000 m/phút = 2 km/phút = 120 km/giờ
* Bài tập áp dụng : Đổi
0,78 km/phút = ... km/giờ
800 m/phút = ... km/giờ
36 km/giờ = ... m/ giây
11 m/giây = ... km/giờ
12,5 m/giây = ... m/giờ = ... km/giờ
8/38
“ Rèn kĩ năng giải toán về chuyển động đều cho học sinh lớp 5”- Tác giả: Phùng Thị Minh Hoa
1.2. Các phép tính với số đo thời gian:
Trong 4 phép tính cộng, trừ, nhân chia số đo thời gian thì học sinh dễ nhầm
lẫn khi thực hiện phép cộng, trừ số đo thời gian với những bài toán dạng sau:
* Ví dụ 1: Một ô tô đi từ tỉnh A đến tỉnh B hết 3 giờ 15 phút rồi đi tiếp đến
tỉnh C hết 2 giờ 30 phút. Hỏi ô tô đi cả quãng đường từ tỉnh A đến tỉnh C hết
bao nhiêu thời gian?
Hướng dẫn HS phân tích đề toán :
- GV hướng dẫn HS phân tích đề toán, vẽ sơ đồ để biểu diễn thời gian ô tô đi
trên từng quãng đường
t = 2 giờ 35 phút
t = 3 giờ 15 phút
A
B
C
- Tìm thời gian ô tô đi trên cả quãng đường từ A đến C ta làm thế nào?
- GV hướng dẫn HS thực hiện phép cộng:
3 giờ 15 phút + 2 giờ 30 phút = ?
Hướng dẫn đặt tính như sau:
3 giờ 15 phút
+
2 giờ 35 phút
5 giờ 50 phút
Vậy: 3 giờ 15 phút + 2 giờ 30 phút = 5 giờ 50 phút
Bài giải:
Thời gian ô tô đi cả quãng đường từ tỉnh A đến tỉnh C là:
3 giờ 15 phút + 2 giờ 30 phút = 5 giờ 50 phút
Đáp số: 5 giờ 50 phút
* Ví dụ 2: Anh Bình đi nhà lúc 6 giờ và đến Hà Nội lúc 8 giờ 30 phút. Hỏi anh
Bình đi từ nhà đến Hà Nội hết bao nhiêu thời gian?
Hướng dẫn HS phân tích đề toán :
- GV hướng dẫn HS phân tích đề toán, vẽ sơ đồ để biểu diễn thời gian anh Bình
đi
Thời gian đi = … ?
8 giờ 30 phút
Hà Nội
6 giờ
Nhà
- Giúp học sinh phân biệt khái niệm:
+ Thời gian xuất phát (thời gian khởi hành) : là thời gian lúc bắt đầu đi (lúc
đồng hồ chỉ số giờ. Ví dụ trên là lúc 6 giờ)
+ Thời gian đến nơi: là thời gian đồng hồ chỉ khi đến nơi (ví dụ trên là lú 8 giờ
9/38
“ Rèn kĩ năng giải toán về chuyển động đều cho học sinh lớp 5”- Tác giả: Phùng Thị Minh Hoa
30 phút)
+ Thời gian đi trên quãng đường: là thời gian thực tế đi trên quãng đường đó
Hướng dẫn đặt tính như sau:
8 giờ 30 phút
6 giờ
-
2 giờ 30 phút
Vậy: 8 giờ 30 phút + 6 giờ = 2 giờ 30 phút
Bài giải
Thời gian anh Bình đi từ nhà đến Hà Nội là:
8 giờ 30 phút – 6 giờ = 2 giờ 30 phút
Đáp số: 2 giờ 30 phút
Ghi nhớ:
Thời gian đi = thời gian đến – thời gian khởi hành – thời gian nghỉ ( nếu có)
Thời gian đến = thời gian khởi hành + thời gian đi + thời gian nghỉ ( nếu có)
Thời gian khởi hành = thời gian đến – thời gian đi – thời gian nghỉ (nếu có)
* Bài tập áp dụng :
1. Một người đi xe máy đi từ A lúc 7 giờ rưỡi và đến B lúc 9 giờ 10 phút. Giữa
đường người đó nghỉ 20 phút. Hỏi thời gian người đó đi trên quãng đường là bao
nhiêu?
2. Lúc 7 giờ 30 phút, một người đi xe đạp từ A và đi trong 1 giờ 20 phút thì
đến B. Hỏi người đó đến B lúc mấy giờ?
3. Một máy bay bay từ thành phố Hồ Chí Minh đến Hà Nội hết 1 giờ 45 phút
và đến Hà Nội lúc 9 giờ. Hỏi máy bay khởi hành từ thành phố Hồ Chí Minh lúc
mấy giờ?
Biện pháp 2 : Làm rõ bản chất, mối quan hệ giữa các đại lượng: vận tốc,
quãng đường, thời gian.
* Trong toán chuyển động đều, khái niệm vận tốc là một khái niệm khó hiểu,
trừu tượng đối với học sinh nên khi dạy bài này tôi đặc biệt chú ý. Để học sinh
hiểu rõ, nắm chắc bản chất của vận tốc, bằng các ví dụ cụ thể để giúp học sinh
hiểu :
Ví dụ 1 : Hai người đi xe đạp cùng xuất phát một lúc, đi từ A đến B. Mỗi giờ
người thứ nhất đi được 12 km, mỗi giờ người thứ hai đi được 18 km. Hỏi ai đến
B trước?
- Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng:
10/38
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "SKKN Rèn kĩ năng giải Toán về chuyển động đều cho học sinh Lớp 5", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- skkn_ren_ki_nang_giai_toan_ve_chuyen_dong_deu_cho_hoc_sinh_l.doc