SKKN Rèn kĩ năng phân tích và viết đoạn văn phân tích ý nghĩa nhan đề tác phẩm văn chương cho học sinh Lớp 9
Vì những lý do trên, để học sinh có cơ hội tìm hiểu thấu đáo và trọn vẹn một tác phẩm văn chương, và để các em ôn tập tốt hơn cho kì thi vào lớp 10 THPT, trên cơ sở đã tích lũy được một vài kinh nghiệm cá nhân trong quá trình giảng dạy tác phẩm văn chương lớp 9, tôi xin mạnh dạn đưa ra những kinh nghiệm của mình với mong muốn được trao đổi kinh nghiệm chuyên môn với các bạn đồng nghiệp thông qua đề tài: “ Rèn kĩ năng phân tích và viết đoạn văn phân tích ý nghĩa nhan đề tác phẩm văn chương cho học sinh lớp 9”.
Sáng kiến kinh nghiệm Ngữ Văn 9
MỤC LỤC
1.
2.
3.
I. Lý do chọn đề tài.
Trang 2
Trang 2
Trang 6
Trang 6
II. Cơ sở lý luận và thực tiễn.
III. Các giải pháp:
1. Những yếu tố cần thiết khi phân tích ý nghĩa
nhan đề của một tác phẩm.
2. Những câu hỏi liên quan đến ý nghĩa nhan đề.
3. Dàn ý của một đoạn văn phân tích ý nghĩa nhan
đề.
Trang 6
Trang 7
4. Hệ thống nội dung cơ bản của những ý nghĩa
nhan đề.
Trang 9
5. Một vài ví dụ cụ thể về đoạn văn phân tích ý
nghĩa nhan đề tác phẩm.
Trang 16
4.
5.
6.
7.
IV. Kết quả.
Trang 21
Trang 22
Trang 23
Trang 24
V. So sánh và đối chiếu.
VI. Đề xuất – kiến nghị.
VII. Tài liệu tham khảo.
1
Sáng kiến kinh nghiệm Ngữ Văn 9
I.
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong các tiết học văn bản, trước mỗi một tác phẩm văn chương, các em
học sinh thường chú trọng đến việc phân tích nội dung tác phẩm, phân tích nhân
vật hoặc phân tích những đặc sắc nghệ thuật mà thường quên đi một bộ phận vô
cùng quan trọng trong cấu trúc của một tác phẩm hoàn chỉnh – đó là nhan đề tác
phẩm. Chính vì thế khi đứng trước một câu hỏi mang nội dung “Phân tích ý nghĩa
nhan đề của tác phẩm…” hoăc câu hỏi “Nhan đề tác phẩm…có ý nghĩa gì?” Thì
đa phần các em học sinh bối rối không biết trả lời hoặc trả lời không đầy đủ, không
thấu đáo được ý nghĩa nội dung của nhan đề. Hơn nữa, việc không hiểu thấu đáo
nhan đề của tác phẩm đồng nghĩa với việc không thể hiểu và cảm thụ trọn vẹn nội
dung và tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Từ đó có thể dẫn đến việc không yêu thích
thậm chí là chán ghét tác phẩm hoặc không cần để ý đến tác phẩm đó.
Thêm vào đó, những câu hỏi về nhan đề (cấu tạo và ý nghĩa) đã từng xuất
hiện trong các đề thi Ngữ văn vào lớp 10 THPT của Sở GD-ĐT Hà Nội, những
câu hỏi ấy chiếm từ 1 đến 2 điểm trong đề thi. Nếu học sinh không hiểu hoặc
không có kĩ năng phân tích ý nghĩa nhan đề của một tác phẩm văn chương thì dễ
dàng bị mất điểm khi làm bài thi, gây ảnh hưởng lớn đến kết quả của kì thi.
Vì những lý do trên, để học sinh có cơ hội tìm hiểu thấu đáo và trọn vẹn
một tác phẩm văn chương, và để các em ôn tập tốt hơn cho kì thi vào lớp 10
THPT, trên cơ sở đã tích lũy được một vài kinh nghiệm cá nhân trong quá trình
giảng dạy tác phẩm văn chương lớp 9, tôi xin mạnh dạn đưa ra những kinh nghiệm
của mình với mong muốn được trao đổi kinh nghiệm chuyên môn với các bạn
đồng nghiệp thông qua đề tài: “ Rèn kĩ năng phân tích và viết đoạn văn phân
tích ý nghĩa nhan đề tác phẩm văn chương cho học sinh lớp 9”.
II.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1- Nhan đề: Còn gọi là đầu đề, là tên, là cái "tít" (title - tiếng Anh, titre -
tiếng Pháp) chung của một văn bản, một tác phẩm. Nó như gương mặt của một
con người; nó là cái nổi bật nhất để phân biệt tác phẩm này với tác phẩm khác.
Nhan đề (đầu đề) thường do người viết đặt ra - như người bố, người mẹ đặt tên
cho đứa con của mình; nhưng cũng có khi do người khác (cán bộ biên tập) đặt hộ,
2
Sáng kiến kinh nghiệm Ngữ Văn 9
hoặc đổi tên đi cho hay, cho phù hợp với chủ đề của tác phẩm. Có những bài nói,
bài viết không có nhan đề, nhưng khi đăng báo, toà soạn phải đặt tên cho. Vì thế,
ở phía dưới có ghi chú: Nhan đề (tên bài, đầu đề) do toà soạn đặt. Đặt được một
nhan đề cho một văn bản, một tác phẩm sao cho đúng, cho hay, cho độc đáo -
không phải dễ. Nhan đề phải khái quát ở mức cao về nội dung tư tưởng của văn
bản, của tác phẩm; phải nói cô đọng được cái "thần", cái "hồn" của tác phẩm.
Nhan đề như thế mới hay và bản thân nó đã có sức thu hút người đọc, người xem.
Nhiều nhà báo, nhà văn (và các tác giả khác) đã phải trăn trở, hoặc phải thay đổi
nhiều lần cho một cái tên tác phẩm của mình.
Nhan đề, một yếu tố cận văn bản (cùng với tiêu đề các chương, các lời tựa,
bạt, lời đề từ, các lời bình luận in trên bìa sách, các ghi chú của người viết...) do
tác giả đặt (hoặc bạn hữu/biên tập viên sành sỏi nào đó gợi ý), nhìn chung đều có
dụng ý tư tưởng, thậm chí nó còn có chức năng định hướng cách đọc, sự tiếp nhận
của độc giả đối với phần chính văn. Nhan đề như một một mã của thông điệp thẩm
mỹ, một mô hình nghệ thuật, nó là cái biểu nghĩa của văn bản văn học, cho độc
giả biết trước: văn bản này viết về cái gì, có thể đọc nó hoặc nên đọc văn bản như
thế nào.
Người xưa khẳng định: “Chỉ ra cái cốt tuỷ của toàn bài, hoặc ở đầu bài,
hoặc ở giữa bài, hoặc ở cuối bài”. Không ít tác giả nhận thấy: “đầu đề phải nổi lên
trên bề mặt văn bản, không có nó… không thể xây dựng được mô hình văn bản”.
Quan điểm này, đúng với một số trường hợp. Nhà văn Đỗ Chu kể: “Bắt tay vào
viết truyện ngắn, có truyện ban đầu đến với tôi bằng một cái tên. Hương cỏ mật,
Mùa cá bột, tôi nghĩ ra những cái tên ấy trước, thấy hay hay, rồi liên tưởng ra
nhân vật và cốt truyện”. Như vậy, nhan đề tương ứng với ý tưởng và dự đồ sáng
tác, nó loé sáng bất chợt và trở thành cái tứ của truyện, thúc đẩy nhà văn kiếm
tìm, suy ngẫm liên tưởng, chi phối mạnh mẽ đến việc tổ chức thế giới nghệ thuật.
Nhan đề là cái ý tưởng, ý tứ ban đầu thôi thúc nhà văn cầm bút. Lưu Hi Tải tổng
kết: Nếu hình thành ý tứ trước khi viết, tác giả sẽ viết nhàn nhã. Nếu cầm bút viết,
rồi ý mới nảy sinh, thì chân tay lúng túng” (Nghệ khái văn khái). (Theo Đào Ngọc
Đệ, Nhan đề, tựa đề, tiêu đề, Lao động cuối tuàn số 32, ngày 19/8/2007)
3
Sáng kiến kinh nghiệm Ngữ Văn 9
Phạm Tiến Duật đánh giá cao lao động sáng tạo của nhà văn ngay từ nhan
đề. Theo ông, người nghệ sĩ có ba cách đặt đầu đề cho tác phẩm của mình: Cách
thứ nhất là không đặt gì cả, tức là tác giả khước từ hoàn toàn việc giới thiệu với
người đọc tác phẩm của mình: ở loại này tác giả thường viết lên đầu đề hai chữ
vô đề. Cách thứ hai: đặt đầu đề mà như không đặt. Cách thứ ba: đặt đầu đề gợi ý,
gợi tình, gợi cảm, gợi cảnh. Như thế, phương pháp đặt nhan đề gần giống với cách
cấu tứ: phú, tỉ, hứng. Một “bài thơ hay”, “bài thơ lớn” ngoài nội dung cụ thể của
nó đem lại, thì nhan đề cũng góp phần không nhỏ trong việc tạo ra tầm vóc tư
tưởng của bài thơ. “Dù đặt thế nào thì đặt đầu đề của tác phẩm văn học phải thống
nhất biện chứng với nội dung tác phẩm”,“thống nhất trong âm dương, trong phức
điệu”. Nhà thơ Phạm Tiến Duật tỏ ra không ưa kiểu “treo đầu dê bán thịt chó”,
càng không bằng lòng với kiểu tạo ra một cái nhan đề quá nghèo nàn về tư tưởng.
Nhan đề sẽ “vô duyên” nếu như “nó không bổ sung cho tác phẩm được gì”. Cần
phải có “nghệ thuật” đặt nhan đề: “Nếu dưới bài là chật thì đầu đề phải rộng;
dưới bài quá lạnh thì đầu đề phải nóng. Cái tứ của bài là giả thì tác phẩm chỉ có
thể cứu lại bằng cái tình thật chứa trên đầu bài” (Phạm Tiến Duật, Vừa làm vừa
nghĩ, Nxb. Văn học, 2003).
Mỗi tác giả có cách đặt nhan đề khác nhau, theo hứng thú thẩm mỹ riêng:
Người thích dài, người thích cộc, kẻ thích gây ấn tượng, người thích giấu ý đồ...
Phạm Tiến Duật định ra cái tiêu đề cũng có vẻ thừa: “Bài thơ về tiểu đội xe không
kính”. Theo tôi, dấu hiệu của sự sáng tạo, mỹ cảm độc đáo của thi nhân có quan
hệ chặt chẽ với cái yếu tố thừa đó. Nguyễn Công Hoan thường đặt nhan đề có ý
nghĩa mỉa mai, đánh dấu, hoặc ngầm thông báo một tình huống nhân sinh (thường
là phi lí, nghịch lí) ở đời, cho thấy lập trường đạo đức của nhà văn…(Theo Thùy
Dương, Nhan đề tác phẩm văn chương-một khía cạnh sáng tạo thú vị)
2- Như vậy, nhan đề của một tác phẩm có ý nghĩa vô cùng quan trọng với
tác phẩm ấy. Trong thực tế, chương trình Ngữ văn 9, hầu hết các tác phẩm văn
chương đều có những nhan đề rất hay và giàu ý nghĩa. Tìm hiểu và phân tích cụ
thể, rõ ràng các nhan đề này góp phần giúp học sinh có được cái nhìn toàn diện
và thấu đáo đến nội dung tác phẩm. Giáo viên định hướng cho học sinh kĩ năng
4
Sáng kiến kinh nghiệm Ngữ Văn 9
phân tích và cảm thụ ý nghĩa nhan đề trong tổng thể tác phẩm vừa giúp các em
hiểu tác phẩm hơn, phục vụ tốt hơn cho nhiệm vụ học tập đồng thời đây cũng là
một mảng nội dung quan trọng trong việc học và ôn thi vào lớp 10 THPT môn
Ngữ Văn.
3. Phạm vi nghiên cứu:
Nhan đề của các tác phẩm văn xuôi và tác phẩm thơ hiện đại trong chương trình
Ngữ Văn 9.
Nhan đề thơ:
- Đồng chí (Chính Hữu).
- Bài thơ về tiểu đội xe không kính (Phạm Tiến Duật).
- Đoàn thuyền đánh cá (Huy Cận).
- Bếp lửa (Bằng Việt).
- Ánh trăng (Nguyễn Duy).
- Mùa xuân nho nhỏ (Thanh Hải).
- Viếng lăng Bác (Viễn Phương).
- Nói với con (Y Phương).
- Sang thu (Hữu Thỉnh).
Nhan đề văn xuôi:
- Làng (Kim Lân).
- Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng).
- Lặng lẽ Sa Pa (Nguyễn Thành Long).
- Những ngôi sao xa xôi (Lê Minh Khuê).
5
Sáng kiến kinh nghiệm Ngữ Văn 9
III. CÁC GIẢI PHÁP.
1. Những yếu tố cần thiết khi phân tích ý nghĩa nhan đề của một tác phẩm.
Nhan đề của một tác phẩm dù ngắn hay dài thì cũng đều được cấu tạo bằng
ngôn từ. Mà ngôn từ trong tác phẩm văn chương thì luôn được xem xét trên các
phương diện cấu tạo, nghĩa đen và nghĩa bóng.
Hơn nữa, như đã trình bày ở trên, nhan đề thường mang ý khái quát, góp
phần thể hiện tư tưởng chủ đề của toàn bộ tác phẩm. Vậy nên, khi phân tích ý
nghĩa nhan đề, cuối cùng đều phải chỉ ra được nhan đề ấy đã góp phần thể hiện tư
tưởng chủ đề của tác phẩm như thế nào.
Vì thế, các yếu tố làm nên một nhan đề tác phẩm là:
- Cấu tạo ngôn từ.
- Nghĩa đen của từ ngữ.
- Nghĩa bóng/ nghĩa biểu tượng/ hình ảnh ẩn dụ thông qua nghĩa đen.
- Tư tưởng chủ để toát ra từ nhan đề đó.
Trên cơ sở những nội dung trên, tùy thuộc vào khả năng diễn đạt của mình,
học sinh có thể trình bày lần lượt từng ý.
2. Những kiểu câu hỏi liên quan đến ý nghĩa nhan đề.
Có nhiều cách hỏi khác nhau về ý nghĩa nhan đề, đơn giản nhất và cũng
phổ biến nhất là dạng câu hỏi: “Phân tích ý nghĩa nhan đề…?”; “Nhan đề tác
phẩm… có ý nghĩa như thế nào?”… với những dạng câu hỏi như trên, về bản chất
là giống nhau, chỉ khác nhau về cách diễn đạt, thế nên học sinh chỉ cần bám vào
các yếu tố làm nên một nhan đề tác phẩm để trình bày lần lượt các ý cần thiết.
Tuy nhiên, cũng có những cách hỏi khác đi về ý nghĩa nhan đề. Thường là
những câu hỏi dạng đối chiếu, so sánh theo kiểu: “tại sao lại đặt tên là… mà trong
khi đó lại…”. Tiêu biểu cho kiểu câu hỏi này là hỏi về nhan đề tác phẩm Làng
(của Kim Lân) và tác phẩm Ánh trăng (của Nguyễn Duy). Ví dụ:
- Trong tác phẩm của mình, Kim Lân kể về ông Hai với câu chuyện xoay
quanh làng Chợ Dầu, tại sao tác giả không đặt tên cho tác phẩm của mình
là “Làng Dầu” hay là “Làng chợ Dầu” mà lại chỉ đặt tên là “Làng”?
6
Sáng kiến kinh nghiệm Ngữ Văn 9
- Trong bài thơ “Ánh trăng”,tại sao từ đầu bài thơ, Nguyễn Duy thường sử
dụng hình ảnh “vầng trăng” nhưng đến dòng thơ cuối và nhan đề của tác
phẩm Nguyễn Duy lại viết là “ánh trăng”?
Dù là hỏi theo những kiểu nào đi chăng nữa thì bản chất của vấn đề vẫn không
thay đổi. Và khi trình bày nội dung về ý nghĩa nhan đề thì luôn phải đảm bảo đầy
đủ những yếu tố góp phần tạo nên một ý nghĩa nhan đề như đã nêu ở trên.
3. Dàn ý của một đoạn văn phân tích ý nghĩa nhan đề.
a. Mở đoạn:
Khẳng định khái quát ý nghĩa, vai trò của ý nghĩa nhan đề trong văn bản.
Lưu ý, trong câu mở đoạn bắt buộc phải có thông tin tên tác phẩm và tác giả.
Ví dụ:
- Nhà thơ Chính Hữu đã đặt tên cho tác phẩm của mình là “Đồng chí” thật
hay và giàu ý nghĩa.
b. Thân đoạn:
Triển khai cụ thể nội dung của các yếu tố tạo nên ý nghĩa nhan đề theo trình tự:
1. Cấu tạo: các nhan đề thường được cấu tạo bằng một từ hoặc một cụm từ.
Khi phân tích cấu tạo nhan đề cần chú ý:
- Những phép tu từ được thể hiện trong nhan đề.
Ví dụ như phép đảo ngữ trong nhan đề “Sang thu” hoặc “Lặng lẽ Sa
Pa” .
- Hoặc chú ý nhấn mạnh đến đặc điểm dài hay ngắn của nhan đề vì đặc điểm
này cũng là một dụng ý nghệ thuật quan trọng mà tác giả gửi gắm trong đó.
Ví dụ những tác phẩm có nhan đề rất ngắn như “Làng”, “Đồng chí”
hoặc nhan đề dài như “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”.
- Cấu tạo từ loại của nhan đề.
Ví dụ: nhan đề “Mùa xuân nho nhỏ”: danh từ “mùa xuân” kết hợp với
tính từ “nho nhỏ”.
1. Giải thích nghĩa đen của nhan đề: cần giải thích cụ thể, chính xác nghĩa
đầu tiên được hiểu theo một cách thông thường và đơn giản nhất của
nhan đề. Bất cứ nhan đề của tác phẩm nào ban đầu cũng được hiểu theo
7
Sáng kiến kinh nghiệm Ngữ Văn 9
nghĩa đen. Và cũng có một số lượng không nhỏ nhan đề các bài thơ chỉ
cần phân tích nghĩa đen (Nói với con, Viếng lăng Bác, Sang thu)
Ví dụ:
- “Chiếc lược ngà”: là món quà ông Sáu đã tỉ mỉ làm để tặng cho bé Thu, là
món quà đầu tiên và cùng là món quà cuối cùng.
- “Làng”: là một đơn vị hành chính ở nông thôn.
- “Đồng chí”: “Đồng” có nghĩa là cùng; “chí” có nghĩa là chí hướng. Đồng
chí có nghĩa là chung chí hướng, cùng lí tưởng.
2. Giải thích nghĩa bóng và phân tích ý nghĩa hình tượng. Có nghĩa là giải
thích những nghĩa bóng bảy, trừu tượng được suy từ nghĩa đen mà ra.
Ví dụ:
- “Chiếc lược ngà”: đã trở thành biểu tượng bất diệt cho tình cảm cha con
trong hoàn cảnh éo le của cuộc chiến đấu.
- “Những ngôi sao xa xôi”: là hình ảnh, biểu tượng cho vẻ đẹp của những
cô gái thanh niên xung phong…
Tuy nhiên cũng có không ít tác phẩm mà nhan đề của nó không cần hoặc không
có nghĩa bóng, nghĩa biểu tượng (ví dụ: Viếng lăng Bác, Nói với con…)
3. Nêu và khẳng định ý nghĩa nhan đề góp phần quan trọng trong việc thể
hiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Để thể hiện được nội dung này, học sinh cần
phải hiểu thấu đáo toàn bộ nội dung và tư tưởng chủ đề mà nhà văn muốn gửi gắm
trong tác phẩm. Nội dung này đã được cô đúc một cách ngắn gọn và chính xác
chuẩn mực trong phần ghi nhớ của sách giáo khoa sau phần đọc hiểu của mỗi văn
bản. Học sinh cần phải ghi nhớ nội dung này.
c. Kết đoạn:
Khẳng định lại ý nghĩa và vai trò của ý nghĩa nhan đề
4. Hệ thống nội dung cơ bản của những ý nghĩa nhan đề.
TÁC
PHẨM
TƯ TƯỞNG
CHỦ ĐỀ
CẤU TẠO
NGHĨA ĐEN
NGHĨA BÓNG
1.Đồng - Ngắn gọn. - Đồng: cùng.
-Khẳng định sức
chí.
mạnh và vẻ đẹp
8
Sáng kiến kinh nghiệm Ngữ Văn 9
(Chính
- Chỉ bằng - Chí: chí hướng, lý
một danh từ tưởng
→là những người
X
tinh thần của
người lính Cụ Hồ
Hữu)
–
những con
chung chí hướng,
chung lý tưởng.
Những người cùng
trong một tổ chức
chính trị, xã hội
thường gọi nhau là
đồng chí.
người cùng chung
cảnh ngộ,chung
chí
hướng,lý
tưởng, gắn bó keo
sơn trong chiến
đấu gian khổ thời
kì chống Pháp.
2.Bài
- Dài, có - Làm nổi bật hình - Nói về những Phạm Tiến Duật
thơ về chỗ tưởng ảnh của toàn bài: chiếc xe không không chỉ viết về
tiểu đội như thừa (là những chiếc xe kính là để làm những chiếc xe
xe không một bài thơ, không kính.
nổi bật hình ảnh không kính, viết
người lính lái xe về hiện thực khốc
– họ là chủ nhân liệt của chiến
của những chiếc tranh mà chủ yếu
xe đặc biệt ấy. ông muốn khẳng
- Qua đây nhà định chất thơ toát
thơ muốn nhấn lên từ hiện thực
mạnh đến hiện trần trụi ấy. Đó là
thực khốc liệt chất thơ của thế
của cuộc chiến hệ trẻ Việt Nam
kính
nhưng nhan
(Phạm
Tiến
đề lại được
bắt
đầu
Duật)
bằng cụm
từ “Bài thơ
về…”)
tranh.
những năm chống
Mỹ hiên ngang,
dũng cảm, trẻ
trung, sôi nổi, có
một trái tim luôn
đập vì miền Nam
phía trước.
3. Bếp - Ngắn gọn. - Là hình ảnh gần Bếp lửa vốn là -Qua hình ảnh
lửa
- Chỉ bằng gũi, quen thuộc một hình ảnh bếp lửa, Bài thơ
một danh từ trong mỗi gia đình quen thuộc trong đã gợi lại những
(Bằng
Việt)
Việt Nam.
mỗi gia đinh kỉ niệm đầy xúc
người Việt Nam động về người bà
9
Sáng kiến kinh nghiệm Ngữ Văn 9
- Là cái bếp lửa bà đã trở thành hình và tình bà cháu,
vẫn nhóm lên mỗi ảnh tượng trưng đồng thời thể hiện
sớm.
gợi kỉ niệm ấm lòng kính yêu trân
áp của tình bà trọng và biết ơn
cháu.
của người cháu
- Bếp lửa là nơi đối với bà và
bà nhóm lên tình cũng là đối với
cảm khát vọng gia đình, quê
trở thành ngọn hương, đất nước.
lửa của tình yêu,
niềm tin.
- Bếp lửa là kỉ
niệm
thiêng
liêng nâng bước
người cháu trên
suốt hành trình
dài rộng của
cuộc đời.
4.Đoàn - Cụm danh - Gợi hình ảnh của - Nói đến đoàn - Thể hiện sự hài
thuyền
đánh cá
(Huy
từ
nhiều con thuyền thuyền đánh cá hòa giữa thiên
chứ không phải là nói đến những nhiên và con
một con thuyền đơn người dân chài người lao động,
Cận)
lẻ..
- Là hình ảnh trung đêm hang say và tự hào của nhà
tâm của toàn bài. lao động trên thơ trước con
lưới đang ngày bộc lộ niềm vui
biển.
người và cuộc
sống.
5.Ánh
- Ngắn gọn. - Ánh trăng là ánh -Là biểu hiện -Là lời tự nhắc
-Bằng một sáng của vầng cho những gì nhở về những
trăng
(Nguyễn danh từ
trăng. Chỉ có ánh tinh túy, đẹp đẽ năm tháng gian
sáng mới có khả nhất của nhân lao đã qua của
năng soi rọi và cách con người, cuộc đời người
chiếu sáng vạn vật của cuộc sống. lính gắn bó với
Ánh sáng ấy đã thiên nhiên đất
Duy)
10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "SKKN Rèn kĩ năng phân tích và viết đoạn văn phân tích ý nghĩa nhan đề tác phẩm văn chương cho học sinh Lớp 9", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- skkn_ren_ki_nang_phan_tich_va_viet_doan_van_phan_tich_y_nghi.pdf