SKKN Xây dựng một số cách thức tạo nhu cầu học tập môn Lịch sử cho học sinh THCS
Đối với môn Lịch sử, với những đặc trưng riêng và trước thực trạng về thái độ học tập môn Lịch sử như hiện nay của học sinh trung học cơ sở thì việc khơi dậy nhu cầu học tập môn Lịch sử ngày càng cấp bách và cần thiết hơn bao giờ hết. Xuất phát từ thực tế của xã hội, của thời đại và của nền giáo dục, trong quá trình giảng dạy với niềm say mê, hứng thú nghiên cứu, tìm tòi nâng cao trình độ hiểu biết và thực hành cho bản thân tôi lựa chọn đề tài “Xây dựng một số cách thức tạo nhu cầu học tập môn Lịch sử cho học sinh THCS”, với mong muốn góp phần nhỏ công sức của mình vào việc nâng cao chất lượng dạy và học môn lịch sử ở trường THCS.
Sáng kiến kinh nghiệm
GV thực hiện: Nguyễn Thị Hưởng
KÝ HIỆU VÀ VIẾT TẮT
: Sáng kiến kinh nghiệm.
: Phương pháp dạy học.
SKKN
PPDH
PP
: Phương pháp.
: Giáo viên.
GV
HS
: Học sinh.
THCS
SGK
: Trung học cơ sở.
: Sách giáo khoa.
GD – ĐT : Giáo dục đào tạo.
ĐH : Đại học.
1
Đề tài: Xây dựng một số cách thức tạo nhu cầu học tập môn Lịch sử cho học
sinh THCS
Sáng kiến kinh nghiệm
GV thực hiện: Nguyễn Thị Hưởng
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời đại ngày nay, thời đại của công nghệ, hội nhập và phát triển,
nhân loại đều hướng đến chân trời tri thức mà hạt nhân là giáo dục. Thước đo
quan trọng cho năng lực sáng tạo của mỗi người trong nền kinh tế tri thức
chính là tốc độ tư duy, khả năng biến đổi thông tin thành kiến thức và từ kiến
thức tạo ra giá trị. Trong xu thế đó, sản phẩm đào tạo phải là những con người
năng động, sáng tạo, có khả năng học thường xuyên, học suốt đời nhằm thích
ứng với những thay đổi nhanh chóng của khoa học, công nghệ và yêu cầu thị
trường lao động.
Để đào tạo con người phát triển toàn diện, đáp ứng yêu cầu và những
thách thức gay gắt của hội nhập và phát triển, cần phải đổi mới và hiện đại hóa
phương pháp giảng dạy ở mọi cấp học, ngành học. Trong bộ môn giáo dục học,
dạy học là một quá trình sư phạm tổng thể, là quá trình tác động qua lại giữa
giáo viên và học sinh, nhằm truyền thụ và lĩnh hội những tri thức khoa học kỹ
năng, kỹ xảo hoạt động nhận thức và thực tiễn, dựa trên cơ sở đó phát triển năng
lực tư duy đặc biệt là tư duy sáng tạo, hình thành một thế giới quan khoa học.
Mục tiêu của bậc trung học cơ sở là hình thành và phát triển được nền
tảng tư duy của con người trong thời đại mới. Xét cho cùng thì thông qua dạy
kiến thức và kỹ năng để đạt được mục tiêu hình thành và phát triển năng lực tư
duy, trí tuệ của học sinh, thông qua việc dạy và học tư duy chúng ta sẽ tạo được
nền móng trí tuệ, cách suy nghĩ để giải quyết các vấn đề trong thực tiễn. Vậy
mục tiêu quan trọng nhất của quá trình dạy và học là giúp cho học sinh phát
triển được tư duy. Giáo viên sử dụng phương pháp dạy học tích cực, trong đó
lấy người học làm trung tâm nhằm tạo hứng thú, kích thích khả năng tư duy để
hình thành nên thói quen tư duy. Thói quen tư duy sẽ được hình thành qua thời
gian từ hiểu, nhớ, và tái hiện lại khi giải quyết vấn đề.
2
Đề tài: Xây dựng một số cách thức tạo nhu cầu học tập môn Lịch sử cho học
sinh THCS
Sáng kiến kinh nghiệm
GV thực hiện: Nguyễn Thị Hưởng
Những tiến bộ khoa học kỹ thuật, nhất là công nghệ thông tin, đang làm
thay đổi nhanh chóng diện mạo của thế giới, thúc đẩy nhanh chóng tốc độ hội
nhập và toàn cầu hóa, theo đó làm thay đổi mục tiêu, nội dung và phương pháp
dạy - học. Ngày nay, nội dung giảng dạy mang tính hiện đại và phát triển,
phương pháp giáo dục coi trọng việc bồi dưỡng năng lực tự học, tự nghiên cứu,
tạo điều kiện cho người học phát triển tư duy sáng tạo và tạo tiền đề để họ có
khả năng tự học suốt đời. Vì vậy, một xu hướng giáo dục thịnh hành ngày nay là
khơi dậy và nuôi dưỡng tính ham muốn học hỏi của sinh viên, hơn là nhồi nhét
cho họ một lượng kiến thức lớn. Nói cách khác, giảng dạy là phải nhắm đến mục
tiêu khai thác và tận dụng nội lực của sinh viên để họ tự học thêm. Tính ham học
này phải được duy trì suốt đời. Lượng kiến thức cần thiết là hành trang cho mỗi
người bước vào tương lai là rất lớn, và những kiến thức này liên tiếp thay đổi
nhanh chóng theo thời gian. Người học và người thực hành cần phải có thái độ
“học, học nữa, và học mãi” để trở thành một người trí thức thực sự.
Khi bàn về phương pháp giáo dục J.Piaget đã rất nhấn mạnh đến vai trò
hoạt động của học sinh. Ông nói: “trẻ em được phú cho tính hoạt động thực sự
và giáo dục không thể thành công nếu không sử dụng và không thực sự kéo dài
tính hoạt động đó”. Như vậy có thể nói hoạt động của mỗi học sinh trong quá
trình giáo dục và giáo dưỡng là yếu tố không thể thiếu được, cho nên trong quá
trình dạy học làm sao để người học được hoạt động, và được làm chủ hoạt động
của mình, giáo viên chỉ là người hướng dẫn học sinh tham gia hoạt động đó như
thế nào, nhằm đạt được hiệu quả cao nhất trong giờ học.
Với sự phát triển không ngừng của thế giới hiện nay, nhu cầu của con
người là rất nhiều, phức tạp, và luôn luôn thay đổi, quá trình dạy học không thể
đáp ứng nhu cầu của mỗi cá nhân, mà đòi hỏi phải đáp ứng nhu cầu chung của
toàn xã hội. Điều đó, không có nghĩa là lãng quên nhu cầu của từng cá nhân mà
quá trình dạy học là quá trình người dạy phải biết lắng nghe nhu cầu của người
3
Đề tài: Xây dựng một số cách thức tạo nhu cầu học tập môn Lịch sử cho học
sinh THCS
Sáng kiến kinh nghiệm
GV thực hiện: Nguyễn Thị Hưởng
học, biết khơi dậy nhu cầu của người học. Cách dạy học này mới hiệu quả, và
phù hợp với xu thế phát triển của thời đại.
Từ những thực tế trên, vấn đề đặt ra cho ngành giáo dục, người quản lí
giáo dục, giáo viên, học sinh… làm thế nào để dạy học không phải “theo nhu
cầu” của người học, mà phải làm sao để “khơi dậy nhu cầu” học của người học?
Đối với môn Lịch sử, với những đặc trưng riêng và trước thực trạng về
thái độ học tập môn Lịch sử như hiện nay của học sinh trung học cơ sở thì việc
khơi dậy nhu cầu học tập môn Lịch sử ngày càng cấp bách và cần thiết hơn bao
giờ hết. Xuất phát từ thực tế của xã hội, của thời đại và của nền giáo dục, trong
quá trình giảng dạy với niềm say mê, hứng thú nghiên cứu, tìm tòi nâng cao
trình độ hiểu biết và thực hành cho bản thân tôi lựa chọn đề tài “Xây dựng một
số cách thức tạo nhu cầu học tập môn Lịch sử cho học sinh THCS”, với mong
muốn góp phần nhỏ công sức của mình vào việc nâng cao chất lượng dạy và học
môn lịch sử ở trường THCS.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu nhằm đưa ra cho giáo viên một số cách thức tạo nhu cầu học
tập môn Lịch sử cho học sinh, từ đó nâng cao hiệu quả dạy và học môn Lịch sử.
3. Đối tượng khảo sát, thực nghiệm
- Đối tượng nghiên cứu:
Một số cách thức tạo nhu cầu học tập môn Lịch sử ở trường THCS.
- Khách thể nghiên cứu:
Phương pháp dạy học môn Lịch sử ở trường THCS.
4. Giả thuyết khoa học
Giáo viên chỉ có thể tạo nhu cầu học tập lịch sử cho học sinh khi các
4
Đề tài: Xây dựng một số cách thức tạo nhu cầu học tập môn Lịch sử cho học
sinh THCS
Sáng kiến kinh nghiệm
GV thực hiện: Nguyễn Thị Hưởng
phương pháp dạy học phải tính đến các yếu tố tâm lý như: đặc điểm tri giác, đặc
điểm cá nhân, đặc điểm nhân cách, sở thích… của các đối tượng học sinh.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
1. Tìm hiểu thực trạng về nhu cầu và thái độ học tập môn Lịch sử của học
sinh THCS.
2. Xây dựng một số cách thức tạo nhu cầu học tập môn Lịch sử cho học
sinh THPT nhằm khơi dậy niềm đam mê, sự hứng thú và nâng cao chất lượng
học tập môn Lịch sử.
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu sử dụng một số cách thức tạo nhu cầu
học tập môn Lịch sử của học sinh trường THCS Thái Thịnh.
Thời gian: Từ năm 2011 - 2014.
Không gian: Tại trường THCS Thái Thịnh - Đống Đa - Hà Nội.
7. Phương pháp nghiên cứu
1. Phương pháp phân tích tư liệu lý luận.
2. Phương pháp điều tra xã hội học.
3. Phương pháp thực nghiệm.
4. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm.
8. Cấu trúc của sáng kiến kinh nghiệm (SKKN)
SKKN gồm ba phần:
- Phần mở đầu:
- Phần nội dung chính gồm 3 chương:
+ Chương 1: Lý luận chung về nhu cầu.
5
Đề tài: Xây dựng một số cách thức tạo nhu cầu học tập môn Lịch sử cho học
sinh THCS
Sáng kiến kinh nghiệm
GV thực hiện: Nguyễn Thị Hưởng
+ Chương 2: Thực trạng về nhu cầu học tập môn Lịch sử của học sinh
+ Chương 3: Đề xuất một số cách thức tạo nhu cầu học tập môn Lịch sử
THCS.
cho học sinh THCS.
- Phần kết luận chung:
6
Đề tài: Xây dựng một số cách thức tạo nhu cầu học tập môn Lịch sử cho học
sinh THCS
Sáng kiến kinh nghiệm
GV thực hiện: Nguyễn Thị Hưởng
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Lý luận chung về nhu cầu
1.1.1. Một số quan điểm về nhu cầu
Ở mỗi giai đoạn lịch sử, nhu cầu lại được con người hiểu theo nhiều nghĩa
khác nhau dựa theo điều kiện, hoàn cảnh xã hội ở thời đại đó. Sở dĩ như vậy, là
bởi bản thân nhu cầu của mỗi người là rất khác nhau.
Theo Nguyễn Khắc Viện trong cuốn từ điển Xã hội học cho rằng: “mọi
hành vi của con người đều do sự kích thích của những nhu cầu nào đó, nhu
cầu thể hiện sự lệ thuộc của một cơ thể sống vào môi trường bên ngoài, thể
hiện thành những ứng xử tìm kiếm khi cơ thể những điều kiện để tồn tại và
phát triển”.
Con người trong mối quan hệ với môi trường xung quanh như thiên nhiên,
xã hội từ đó hình thành những đòi hỏi về vật chất, văn hóa, tinh thần. Đó là nhu
cầu. Theo nghĩa hẹp thì nhu cầu là những yêu cầu cần thiết của con người để
sống và tồn tại. Theo nghĩa rộng, đó là tất cả những yêu cầu của con người để
tồn tại và phát triển.
Theo Lê Hữu Tầng đưa ra quan niệm về nhu cầu: “nhu cầu là những đòi
hỏi của con người, của từng cá nhân, của các nhóm xã hội khác hoặc toàn xã
hội muốn có những điều kiện nhất định để tồn tại và phát triển”.
Theo Tiến sĩ Lê Thị Kim Chi, đã định nghĩa khái niệm nhu cầu như sau:
“Nhu cầu là những trạng thái thiếu hụt và những đòi hỏi cần được đáp ứng của
chủ thể (con người và xã hội) để tồn tại và phát triển”.
Từ những quan điểm của các nhà nghiên cứu, ở mỗi giai đoạn lại đưa ra
những quan điểm khác nhau về khái niệm nhu cầu, nhưng về cơ bản thì những
7
Đề tài: Xây dựng một số cách thức tạo nhu cầu học tập môn Lịch sử cho học
sinh THCS
Sáng kiến kinh nghiệm
GV thực hiện: Nguyễn Thị Hưởng
định nghĩa đó đều có đặc điểm chung. Tuy nhiên, Tôi thấy khái niệm về nhu cầu
của Tiến Sĩ Lê Thị Kim Chi gắn gọn và đầy đủ nhất.
Theo định nghĩa trên, “trạng thái thiếu hụt” chính là những mong muốn về
một điều gì đó của con người trong quá trình sống có thể là trạng thái thiếu hụt
về vật chất hoặc về tinh thần, và “đòi hỏi” yêu cầu phải được thỏa mãn có như
vậy thì con người mới tiếp tục tồn tại và phát triển phù hợp với từng giai đoạn
phát triển của xã hội.
1.1.2. Đặc điểm của nhu cầu
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, xã hội loài người vận
động và phát triển theo quy luật thay thế của các hình thái kinh tế - xã hội, sự
thay thế này lại chịu sự quy định của các lực lượng sản xuất. “Ở mỗi giai đoạn
phát triển của lịch sử, các thế hệ kế tiếp nhau được thừa hưởng một kết quả vật
chất nhất định, một tổng số nhất định của lực lượng sản xuất”, đồng thời cũng
bổ sung thêm lực lượng sản xuất mới. Những lực lượng sản xuất này sẽ góp
phần thỏa mãn những nhu cầu cơ bản, sống còn và những nhu cầu ngày một cao
của con người. Điều đó cũng có nghĩa là nhu cầu đã kích thích sự phát triển lực
lượng sản xuất, là động lực hoạt động của con người và của mọi sự biến đổi xã
hội.
Như chúng ta biết, sự xuất hiện của con người và loài người là kết quả của
sự tiến hóa của thế giới vật chất ở giai đoạn cao. Con người xuất hiện thì đồng
thời cũng xuất hiện các nhu cầu đảm bảo cho sự sinh tồn và phát triển của mình.
Để thỏa mãn các nhu cầu đó, con người phải hành động và đó chính là hành vi
lịch sử đầu tiên của loài người. Vấn đề này, C.Mác đã khẳng định: “tiền đề đầu
tiên của mọi sự tồn tại của con người, và do đó, là tiền đề của mọi lịch sử, đó là:
người ta có khả năng sống rồi mới có thể “làm ra lịch sử”. Nhưng muốn sống
được thì trước hết cần phải có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ
khác nữa. Như vậy, hành vi lịch sử đầu tiên là việc sản xuất ra những tư liệu
8
Đề tài: Xây dựng một số cách thức tạo nhu cầu học tập môn Lịch sử cho học
sinh THCS
Sáng kiến kinh nghiệm
GV thực hiện: Nguyễn Thị Hưởng
để thỏa mãn những nhu cầu ấy, việc sản xuất ra bản thân đời sống vật chất. Hơn
nữa, đó là một hành vi lịch sử, một điều kiện cơ bản của mọi lịch sử mà (hiện
nay cũng như hàng nghìn năm về trước) người ta phải thực hiện hằng ngày, hằng
giờ, chỉ để nhằm duy trì đời sống con người”.
Vì vậy, lao động sản xuất của con người là hành vi lịch sử đầu tiên tạo ra
các sản phẩm để thỏa mãn những nhu cầu của mình. Mặt khác, không có nhu
cầu thì không có sản xuất. Chính sự tác động qua lại giữa con người với con
người; giữa con người và môi trường; giữa con người với sản xuất... Làm cho
nhu cầu nảy sinh và tồn tại. Bởi vì, một mặt nhu cầu nảy sinh trước hết là do tác
động của hoàn cảnh bên ngoài đến chủ thể, trong đó có tác động của hoạt động
sản xuất. Và hoạt động sản xuất chính là hoạt động để làm ra các đối tượng
nhằm thỏa mãn các nhu cầu. Cho nên, theo Tiến Sĩ Lê Thị Kim Chi, thì nhu cầu
vừa mang tính khách quan, vừa mang tính chủ quan.
Mặt khác, nhu cầu nảy sinh còn phụ thuộc vào các trạng thái riêng của
từng chủ thể. Bởi vì, nhu cầu còn phụ thuộc vào trình độ hiểu biết, nhân cách,
lối sống, phong tục tập quán, giá trị văn hóa của chủ thể. Như vậy, nhu cầu vừa
mang tính chủ quan, vừa mang tính cá nhân, tính cụ thể. Chẳng hạn, ở trong một
gia đình mỗi thành viên thường có các nhu cầu cần thiết khác như ông bà thường
có nhu cầu chăm sóc sức khỏe; bố mẹ thường có nhu cầu làm ra tiền để bảo đảm
cuộc sống cho gia đình; con cái thường có nhu cầu học hành, vui chơi, giải trí.
Nhu cầu còn mang tính sinh học nhằm đáp ứng những đòi hỏi của sự phát
triển sinh học của con người, nhưng mặt khác nhu cầu lại mang tính xã hội, thể
hiện ở chỗ:
Thứ nhất, dù là của riêng mỗi cá nhân nhưng nhu cầu chỉ có thể được đáp
ứng nhờ nền sản xuất xã hội, bị nền sản xuất đó quy định và vì vậy, chúng mang
tính xã hội rõ rệt. Các nền sản xuất đưa ra những sản phẩm khác nhau, nên nhu
cầu được thỏa mãn theo sự quy định của nền sản xuất.
9
Đề tài: Xây dựng một số cách thức tạo nhu cầu học tập môn Lịch sử cho học
sinh THCS
Sáng kiến kinh nghiệm
GV thực hiện: Nguyễn Thị Hưởng
Thứ hai, cùng là những nhu cầu như nhau, nhưng ở mỗi thời đại, mỗi xã
hội lại đáp ứng chúng theo những cách khác nhau, phù hợp với điều kiện lịch sử
và mức độ phát triển của xã hội đó. C. Mác đã từng nói: “Cùng là cái đói, nhưng
cái đói được thỏa mãn bằng đĩa và dao khác với cái đói ngốn ngấu thịt sống
băng bàn tay, móng tay và răng”.
Thứ ba, nhu cầu đuợc được đáp ứng trong khuôn khổ của phong tục tập
quán (văn hóa) của cộng đồng và bị quy định bởi văn hóa cộng đồng, mà mỗi
nền văn hóa xã hội đều có văn hóa ẩm thực, văn hóa trang phục khác nhau.
Thứ tư, nhu cầu bao giờ cũng có tính đối tượng. Khi nào nhu cầu gặp đối
tượng có khả năng đáp ứng sự thỏa mãn thì lúc đó nhu cầu trở thành động cơ
thúc đẩy con người hoạt động nhắm tới đối tượng
Như vậy, nhu cầu là một mâu thuẫn, vừa xuất hiện lại vừa mất đi (khi đã
hoàn toàn thỏa mãn rồi), rồi lại tiếp tục nảy sinh những nhu cầu mới. Chính vì
vậy, những nhu cầu nhất của con người là có tính lịch sử, cụ thể nhưng tổng thể
các nhu cầu thì lại tồn tại vĩnh viễn với đời sống hoạt động của con người và loài
người. Nhu cầu và hoạt động thỏa mãn nhu cầu, cũng như những việc sáng tạo
thỏa mãn những nhu cầu mới nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
con người còn mang bản chất xã hội và nhân văn của hoạt động người.
Từ những đặc điểm trên, có thể nói rằng, trong cuộc sống con người càng
hoạt động bao nhiêu thì lại càng nảy sinh nhu cầu bấy nhiêu. Trong mỗi con
người luôn luôn xuất hiện các nhu cầu và con người hoạt động đều nhằm thoả
mãn những nhu cầu ấy. Nhu cầu chính là nguồn gốc tạo động cơ, động lực thúc
đẩy con người hoạt động và phát triển. Người làm giáo dục, cần tìm hiểu nhu
cầu của xã hội, của từng cá nhân học sinh, cần phải đưa học sinh vào các hoạt
động lành mạnh, đặc biệt là các hoạt động học tập để khơi gợi, làm nảy sinh nhu
cầu học tập thực sự của các em - nhu cầu tiếp thu tri thức. Qua đó để có thể đưa
ra những biện pháp giáo dục hiệu quả nhằm đào tạo ra những thế hệ tương lai
10
Đề tài: Xây dựng một số cách thức tạo nhu cầu học tập môn Lịch sử cho học
sinh THCS
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "SKKN Xây dựng một số cách thức tạo nhu cầu học tập môn Lịch sử cho học sinh THCS", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- skkn_xay_dung_mot_so_cach_thuc_tao_nhu_cau_hoc_tap_mon_lich.pdf