SKKN Đổi mới phương pháp dạy học ở Trường Trung học cơ sở
Vấn đề đổi mới PPDH đó được đặt ra đối với tất cả các cấp học trong hệ thống giáo dục phổ thông. Đặc biệt, khi chúng ta tiến hành đổi mới CT và SGK vấn đề đổi mới PPDH đó trở thành một yêu cầu cấp thiết. Phong trào đổi mới PPDH đó diễn ra rộng khắp trong ngành GD toàn quốc. Tuy nhiên việc đổi mới PPDH chưa được thực hiện một cách đồng bộ ở các trường học, cấp học, các vùng miền trong cả nước.
ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
Tài liệu này gồm phần mở đầu và các phần chính sau:
Phần I. Yêu cầu cấp thiết của việc đổi mới PPDH ở trường phổ thông
Phần II. Thực trạng dạy học ở trường THCS
Phần III. Định hướng đổi mới PPDH ở trường THCS
Phần IV. Giải pháp đổi mới PPDH ở trường THCS
Phần V. Khái niệm PPDH và các bình diện của PPDH
Phần VI. Xây dựng và triển khai kế hoạch tập huấn cho giáo viên về đổi mới
phương pháp dạy học ở trường
Mở đầu: Giới thiệu những nội dung chính sau:
1. Mục tiêu của đợt tập huấn
Khoá học nhằm giúp học viên - cán bộ quản lí giáo dục nhận thức rõ hơn về việc đổi mới
PPDH ở trường THCS, để từ đó làm tốt hơn công tác chỉ đạo và hỗ trợ giáo viên trong quá trình
dạy học, từng bước nâng cao năng lực của đội ngũ GV THCS.
2. Tiến trình và phương pháp làm việc
- Học viên sẽ được tiếp cận với các tài liệu nguồn; trong mỗi buổi học, giảng viên sẽ đưa
ra những nhiệm vụ và yêu cầu cụ thể cho mỗi nội dung được đưa ra trong khoá học.
- Học viên sẽ thực hiện các hoạt động trong mỗi buổi học, với hình thức cá nhân hoặc
nhóm. Khoá học đề cao sự hợp tác, chia sẻ kinh nghiệm của các cá nhân để tăng cường khả năng
phối hợp và sự hiểu biết sâu hơn về nhận thức của mỗi cá nhân.
3. Các kết quả và sản phẩm sau khoá học
- Kết quả đạt được trong khoá học sẽ là những ý kiến trao đổi, thống nhất được các học
viên đưa ra trong mỗi buổi học tương ứng với những nội dung và yêu cầu của tài liệu.
- Kết thúc khoá học, học viên sẽ có hoạt động tự đánh giá kết quả đạt được của bản thân
sau khoá học.
32
PHẦN I. YÊU CẦU CẤP THIẾT CỦA VIỆC
ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG
1.1.Yêu cầu của sự phát triển kinh tế, xã hội đối với giáo dục
+ Xã hội thông tin
+ Kinh tế tri thức
+ Việc gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO và toàn cầu hoá
+ Giáo dục Việt Nam trước yêu cầu hội nhập quốc tế, với mục tiêu đào tạo nguồn
nhân lực, bồi dưỡng và phát triển nhân tài.
1.2.Quan điểm chỉ đạo đổi mới giáo dục THCS
Các văn bản pháp quy có đề cập đến vấn đề đổi mới GDCS, trong đó có giáo dục THCS
+ Nghị quyết 40/2000/QH10
+ Chỉ thị 14/2001/CT-TTg
+ Chiến lược phát triển giáo dục
+ Luật giáo dục( sửa đổi năm 2005)
Hoạt động 1
Từ thực tiễn của GD hiện nay và từ các văn bản pháp quy nêu trên, ông/bà hãy chỉ
ra 3 lí do phải đổi mới PPDH ở trường phổ thông và sắp xếp theo thứ tự với số 1 là lí
do cấp thiết nhất. Giải thích cho sự lựa chọn của mình.
33
PHẦN II. THỰC TRẠNG DẠY - HỌC Ở TRƯỜNG THCS
2.1. Thực trạng
Vấn đề đổi mới PPDH đã được đặt ra đối với tất cả các cấp học trong hệ thống giáo dục
phổ thông. Đặc biệt, khi chúng ta tiến hành đổi mới CT và SGK thì vấn đề đổi mới PPDH đã trở
thành một yêu cầu cấp thiết. Phong trào đổi mới PPDH đã diễn ra rộng khắp trong ngành GD
toàn quốc. Tuy nhiên việc đổi mới PPDH chưa được thực hiện một cách đồng bộ ở các trường
học, cấp học, các vùng miền trong cả nước. Xem xét thực trạng đổi mới PPDH ở trường THCS,
có thể thấy nổi lên một số vấn đề như sau:
-
Kiểu dạy học phổ biến trong nhiều trường, nhiều môn học hiện nay vẫn là giáo viên
truyền thụ những nội dung được trình bày trong SGK, học sinh nghe và ghi nhớ một
cách thụ động.
-
-
Việc sử dụng phối hợp các PPDH để phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh còn
hạn chế.
Việc gắn nội dung dạy học với các tình huống thực tiễn cũng như để giải quyết các
chủ đề phức hợp của thực tiễn chưa được chú trọng.
2.2.Nguyên nhân
-
Giáo viên chưa được trang bị một cách hệ thống, bài bản về vấn đề đổi mới PPDH nên còn
lúng túng, đa số GV mới hiểu vấn đề đổi mới PPDH ở hình thức bên ngoài (ví như đổi mới
chỉ là tăng cường thảo luận nhóm hoặc phải sử dụng máy chiếu, giáo án điện tử,... trong các
giờ học) mà chưa chú ý được đến bình diện bên trong của PPDH (hiệu quả và sự phù hợp
của các phương pháp đối với nội dung và đặc thù môn học).
-
-
-
-
Phương tiện, thiết bị dạy học ở nhiều trường còn nghèo nàn, không thuận lợi cho việc
áp dụng PPDH mới, nhất là các PPDH hiện đại.
Đời sống của nhiều GV còn khó khăn, trong khi số tiết dạy trong tuần của GV cao,
nên GV ít có thời gian đầu tư thoả đáng cho việc đổi mới PPDH.
Động cơ thái độ học tập của nhiều HS chưa thật tốt. HS vẫn quen với lối học thụ
động, chưa sẵn sàng tham gia một cách tích cực, chủ động vào các nội dung học tập
Các cơ quan nghiên cứu chưa đầu tư nhiều vào việc bồi dưỡng giáo viên và các cán bộ
quản lí về đổi mới PPDH (chưa có những công trình nghiên cứu vừa đảm bảo cơ sở lí
luận, vừa giải quyết được việc chỉ dẫn cho giáo viên dạy học theo hướng tích cực,...)
-
Việc kiểm tra thi cử mặc dầu có những đổi mới nhưng vẫn mang tính hình thức, chưa
khuyến khích được cách học thông minh, sáng tạo của học sinh.
34
-
-
Các trường sư phạm chưa có sự đổi mới căn bản về chương trình và phương pháp đào
tạo cho sinh viên.
Hệ thống quản lí, chỉ đạo, thanh tra chuyên môn ở nhiều nơi còn cứng nhắc, máy
móc, chưa tạo điều kiện cho các hoạt động sư phạm sáng tạo của GV.
Hoạt động 2
Ông/bà hãy cùng trao đổi về thực trạng đổi mới PPDH của đội ngũ GV ở trường
mình với đồng nghiệp để có những đánh giá khách quan, chính xác về những mặt
đã làm được và những mặt hạn chế của công tác này đối với trường của ông/bà.
35
PHẦN III.
ĐỊNH HƯỚNG ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC Ở TRƯỜNG THCS
3.1. Định hướng chung:
Định hướng chung về đổi mới PPDH đã được qui định trong Luật giáo dục và được cụ
thể hoá trong những định hướng xây dựng chương trình và biên soạn sách giáo khoa THCS.
Định hướng đó là: “phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ
động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng
phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm,
đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”.
Có thể nói cốt lõi của đổi mới PPDH ở trường THCS là hướng tới giúp học sinh học tập
tích cực, chủ động, sáng tạo, từ bỏ thói quen học tập thụ động, ghi nhớ máy móc. Cụ thể là:
- Đổi mới tính chất và nội dung hoạt động của giáo viên và học sinh, chuyển từ dạy học truyền
thụ một chiều, học tập thụ động, chủ yếu là ghi nhớ kiến thức để đối phó với thi cử sang học tập
tích cực, chủ động, sáng tạo, chú trọng hình thành năng lực tự học dưới sự giúp đỡ, hưỡng dẫn,
tổ chức của giáo viên.
- Đổi mới các hình thức tương tác xã hội trong dạy học, chuyển từ dạy học đồng loạt cả lớp đối
diện với giáo viên, học tập đơn phương sang tổ chức dạy học theo các hình thức tương tác: học
cá nhân, học theo nhóm...
- Đổi mới các hình thức tổ chức dạy học:
+ Đa dạng hoá các hình thức tổ chức dạy học, làm cho việc học sinh động, lí thú, tránh
nhàm chán, đơn điệu, từ đó có thể khắc phục điểm yếu, phát huy điểm mạnh của các hình thức tổ
chức dạy học khác nhau
+ Làm cho việc học gắn với môi trường thực tế, gắn với kinh nghiệm sống của cá nhân học
sinh, tạo điều kiện tổ chức học tập với hình thức điều tra, nghiên cứu trong thực tiễn cuộc sống,...
3.2. Cụ thể hoá định hướng chung vào một số môn học
Hoạt động 3
Ông/bà hãy cụ thể hoá định hướng chung về đổi mới PPDH vào môn học mà ông/bà
đã từng giảng dạy để thấy rõ được việc vận dụng những định hướng về đổi mới PPDH
theo đặc thù bộ môn.
36
PHẦN IV. GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI PPDH Ở TRƯỜNG THCS
4.1. Một số giải pháp cơ bản
4.1.1. Xây dựng mô hình lí luận, xác định quan điểm, định hướng đúng đắn và những biện pháp
khả thi nhằm đổi mới PPDH. Đổi mới về quan niệm, nhận thức của cán bộ quản lí, giáo
viên về việc áp dụng các PPDH mới để nâng cao hiệu quả dạy học.
4.1.2. Khai thác những yếu tố tích cực của các PPDH truyền thống một cách phù hợp và có hiệu
quả, đồng thời đưa các quan điểm, mô hình dạy học hiện đại, các PPDH mới vào trường
THCS, tạo điều kiện cần thiết để giáo viên có thể thực hiện được sự chuyển biến về các
hoạt động dạy và học, chuyển từ lối truyền thụ kiến thức một chiều sang việc tổ chức các
hoạt động tự lập, tự khám phá, tự chiếm lĩnh tri thức, hình thành năng lực tự học, năng
lực sáng tạo của học sinh.
4.1.3. Đổi mới các hình thức tổ chức dạy học. Bồi dưỡng năng lực tổ chức dạy học theo nhiều
hình thức đa dạng, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi (cả tinh thần và vật chất) cho
GV và HS để tổ chức một cách hiệu quả các hoạt động dạy học.
4.1.4. Đổi mới môi trường dạy học và các thiết bị dạy học.
4.1.5. Đổi mới kiểm tra, thi cử.
4.1.6. Đổi mới đào tạo, bồi dưỡng giáo viên.
4.1.7. Đổi mới cơ chế quản lí và cách thức đánh giá lao động của giáo viên.
4.1.8. Đổi mới chế độ chính sách đối với giáo viên,...
4.2. Điều kiện để thực hiện
Hoạt động 4
Ông/bà hãy cùng trao đổi về các giải pháp cơ bản được trình bày trên. Với tư cách là
nhà chỉ đạo giáo dục, ông/bà có đề xuất gì về các giải pháp và điều kiện để tiến hành đổi
mới PPDH từ thực tế ở trường của ông/bà.
37
PHẦN V. KHÁI NIỆM PPDH VÀ CÁC BÌNH DIỆN CỦA PPDH
5.1. Một số khái niệm
PPDH là khái niệm cơ bản của lí luận dạy học, nhưng đến nay vẫn còn nhiều vấn đề cần
được tiếp tục nghiên cứu và thống nhất trong cách định nghĩa, phân loại cũng như xác định mô
hình cấu trúc của PPDH.
Khái niệm PPDH có thể hiểu theo nghĩa rộng là những hình thức và cách thức hoạt động
của GV và HS trong những điều kiện dạy học xác định nhằm đạt được mục tiêu dạy học.
PPDH là một khái niệm phức hợp, có nhiều bình diện, phương diện khác nhau.. Có thể
nêu ra một số đặc trưng của PPDH như sau: PPDH định hướng mục tiêu dạy học; PPDH là sự
thống nhất của PP dạy và PP học; PPDH thực hiện thống nhất chức năng đào tạo và giáo dục;
PPDH là sự thống nhất của lôgíc nội dung dạy học và lôgíc tâm lí nhận thức; PPDH có mặt bên
ngoài và mặt bên trong, mặt khách quan và mặt chủ quan; PPDH là sự thống nhất của cách thức
hành động và phương tiện dạy học.
Do tính phức hợp của khái niệm PPDH nên việc phân loại và mô tả cấu trúc của khái
niệm PPDH rất khác nhau và theo nhiều bình diện khác nhau như mô hình cấu trúc 2 mặt của
PPDH, mô hình 3, 4 thành tố cơ bản,... Trong bài viết này, chỉ xin trình bày mô hình 3 thành tố :
Quan điểm dạy học (QĐDH) – Phương pháp dạy học (PPDH) – Kĩ thuật dạy học (KTDH).
- Quan điểm dạy học: là những định hướng tổng thể cho các hành động PP, trong đó có sự
kết hợp giữa các nguyên tắc dạy học làm nền tảng, những cơ sở lí thuyết của của LLDH đại cương
hay chuyên ngành, những điều kiện dạy học và tổ chức cũng như những định hướng mang tính
chiến lược dài hạn, có tính cương lĩnh, là mô hình lí thuyết của PPDH. Tuy nhiên các quan điểm
dạy học chưa đưa ra những mô hình hành động cũng như những hình thức xã hội cụ thể của PP.
- Phương pháp dạy học: Khái niệm PPDH ở đây được hiểu với nghĩa hẹp, đó là các
PPDH, các mô hình hành động cụ thể. PPDH cụ thể là những cách thức hành động của GV và
HS nhằm thực hiện những mục tiêu DH xác định, phù hợp với những nội dung và điều kiện dạy
học cụ thể. PPDH cụ thể quy định những mô hình hoạt động của GV và HS. PPDH cụ thể bao
gồm những PP chung cho nhiều môn và các PP đặc thù bộ môn. Bên cạnh các PPDH truyền
thống quen thuộc như thuyết trình, đàm thoại, trực quan, làm mẫu, có thể kể một số PP khác như:
PP nghiên cứu trường hợp, PP điều phối, PP đóng vai,...
- Kĩ thuật dạy học: là những động tác, cách thức hành động của GV và HS trong các tình
huống hành động nhỏ nhằm thực hiện và điều khiển quá trình dạy học. Các KTDH chưa phải là các
PPDH độc lập. Bên cạnh các KTDH thường dùng, có thể kể đến một số KTDH phát huy tính tích cực,
sáng tạo của người học như: KT công não, KT thông tin phản hồi, KT bể cá, KT tia chớp,...
38
Quan điểm dạy học là khái niệm rộng, định hướng cho việc lựa chọn các phương pháp
dạy học cụ thể. Các phương pháp dạy học là khái niệm hẹp hơn, đưa ra mô hình hành động. Kĩ
thuật dạy học là khái niệm nhỏ nhất, thực hiện các tình huống hành động. Một quan điểm dạy
học có những phương pháp dạy học phù hợp, một phương pháp dạy học cụ thể có các kĩ thuật
dạy học đặc thù. Tuy nhiên, có những phương pháp phù hợp với nhiều quan điểm dạy học cũng
như những kĩ thuật dạy học dùng trong nhiều phương pháp khác nhau. Vì vậy việc phân loại các
phương pháp dạy học cũng chỉ mang tính tương đối. Trong thực tế, nhiều khi người ta dùng
chung khái niệm phương pháp dạy học cho các bình diện, phương diện khác nhau vì chúng đều
thuộc phạm trù phương pháp dạy học.
Hoạt động 5
- Ông/bà hãy nêu ra một QĐDH, một PPDH và một KTDH được áp dụng cho một môn học
cụ thể. Xin hãy giải thích về sự lựa chọn của mình.
5.2. Đặc điểm của các phương pháp dạy học tích cực
a) Dạy học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh
Trong phương pháp tổ chức, người học - đối tượng của hoạt động “dạy”, đồng thời là chủ
thể của hoạt động “học” - được cuốn hút vào các hoạt động học tập do giáo viên tổ chức và chỉ
đạo, thông qua đó tự lực khám phá những điều mình chưa rõ chứ không phải thụ động tiếp thu
những tri thức đã được GV sắp đặt. Được đặt vào những tình huống của đời sống thực tế, người
học trực tiếp quan sát, thảo luận, làm thí nghiệm, giải quyết vấn đề đặt ra theo cách suy nghĩ của
mình, từ đó nắm được kiến thức kĩ năng mới, vừa nắm được phương pháp “làm ra” kiến thức, kĩ
năng đó, không rập theo những khuôn mẫu sẵn có, được bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng tạo.
Dạy học theo cách này thì GV không chỉ giản đơn truyền đạt tri thức mà còn là người
hướng dẫn hành động. Chương trình dạy học phải giúp cho từng HS biết hành động và tích cực
tham gia vào các chương trình hành động của cộng đồng.
Quan điểm dạy học dạy học tích cực thực ra không phải là hoàn toàn mới. Khổng Tử,
ngay từ 500 năm trước công nguyên đã cho rằng cách học hiệu quả nhất là lôi kéo sự tham gia
của người học vào quá trình hình thành tri thức. Ông nói:
“Nói cho tôi biết, tôi sẽ quên; Chỉ cho tôi thấy, có thể tôi sẽ nhớ; Cho tôi tham gia, tôi sẽ hiểu”.
b) Dạy và học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học
Phương pháp tích cực xem việc rèn luyện phương pháp học tập cho học sinh không chỉ là
một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là một mục tiêu dạy học.
39
Trong xã hội hiện đại đang biến đổi nhanh - với sự bùng nổ thông tin, khoa học, kĩ thuật,
công nghệ phát triển như vũ bão - thì không thể nhồi nhét vào đầu óc trẻ khối lượng kiến thức ngày
càng nhiều. Phải quan tâm dạy cho trẻ phương pháp học ngay từ bậc Tiểu học và càng lên bậc học
cao hơn điều này càng phải được chú trọng.
Trong các phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học. Nếu rèn luyện cho người
học có được phương pháp, kĩ năng, thói quen, ý chí tự học thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, khơi
dậy nội lực vốn có trong mỗi con người, kết quả học tập sẽ được nhân lên gấp bội. Vì vậy, ngày
nay người ta nhấn mạnh mặt hoạt động học trong quá trình dạy học, nỗ lực tạo ra sự chuyển biến
từ học tập thụ động sang tự học chủ động, đặt vấn đề phát triển tự học ngay trong trường phổ
thông, không chỉ tự học ở nhà sau bài lên lớp mà tự học cả trong tiết học có sự hướng dẫn của
giáo viên.
c). Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác
Trong một lớp học mà trình độ kiến thức, tư duy của học sinh không thể đồng đều tuyệt
đối thì khi áp dụng phương pháp tích cực buộc phải chấp nhận sự phân hoá về cường độ, tiến độ
hoàn thành nhiệm vụ học tập, nhất là khi bài học được thiết kế thành một chuỗi công tác độc lập.
Áp dụng phương pháp tích cực ở trình độ càng cao thì sự phân hoá này càng lớn. Việc sử
dụng các phương tiện công nghệ thông tin trong nhà trường sẽ đáp ứng yêu cầu cá thể hoá hoạt
động học tập theo nhu cầu và khả năng của mỗi học sinh.
Tuy nhiên, trong học tập, không phải mọi tri thức, kĩ năng, thái độ đều được hình thành
bằng những hoạt động độc lập cá nhân. Lớp học là môi trường giao tiếp thầy - trò, trò - trò, tạo
nên mối quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trên con đường chiếm lĩnh nội dung học tập. Thông
qua thảo luận, tranh luận trong tập thể, ý kiến mỗi cá nhân được bộc lộ, khẳng định hay bác bỏ,
qua đó người học nâng mình lên một trình độ mới. Bài học vận dụng được vốn hiểu biết và kinh
nghiệm sống của thầy giáo.
Trong nhà trường, phương pháp học tập hợp tác được tổ chức ở cấp nhóm, tổ, lớp hoặc
trường. Được sử dụng phổ biến trong dạy học là hoạt động hợp tác trong nhóm nhỏ 4 đến 6
người. Học tập hợp tác làm tăng hiệu quả học tập, nhất là lúc phải giải quyết những vấn đề gay
cấn, lúc xuất hiện thực sự nhu cầu phối hợp giữa các cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ chung.
Trong hoạt động theo nhóm nhỏ sẽ không thể có hiện tượng ỷ lại; tính cách năng lực của mỗi
thành viên được bộc lộ, uốn nắn, phát triển tình bạn, ý thức tổ chức, tinh thần tương trợ. Mô hình
hợp tác trong xã hội đưa vào đời sống học đường sẽ làm cho các thành viên quen dần với sự
phân công hợp tác trong lao động xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường đã xuất hiện nhu cầu hợp tác xuyên quốc gia, liên quốc gia;
năng lực hợp tác phải trở thành một mục tiêu giáo dục mà nhà trường phải chuẩn bị cho học sinh.
40
d) Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò
Trong dạy học, việc đánh giá học sinh không chỉ nhằm mục đích nhận định thực trạng và
điều chỉnh hoạt động học của trò mà còn đồng thời tạo điều kiện nhận định thực trạng và điều
chỉnh hoạt động dạy của thầy.
Trước đây giáo viên giữ độc quyền đánh giá học sinh. Trong phương pháp tích cực, giáo
viên phải hướng dẫn học sinh phát triển kĩ năng tự đánh giá để tự điều chỉnh cách học. Liên quan
với điều này, giáo viên cần tạo điều kiện thuận lợi để học sinh được tham gia đánh giá lẫn nhau.
Tự đánh giá đúng và điều chỉnh hoạt động kịp thời là năng lực rất cần cho sự thành đạt trong
cuộc sống mà nhà trường phải trang bị cho học sinh.
Theo hướng phát triển các phương pháp tích cực để đào tạo những con người năng động,
sớm thích nghi với đời sống xã hội, thì việc kiểm tra, đánh giá không thể dừng lại ở yêu cầu tái
hiện các kiến thức, lặp lại các kĩ năng đã học mà phải khuyến khích trí thông minh, óc sáng tạo
trong việc giải quyết những tình huống thực tế.
Với sự trợ giúp của các thiết bị kĩ thuật, kiểm tra đánh giá sẽ không còn là một công việc
nặng nhọc đối với giáo viên, mà lại cho nhiều thông tin kịp thời hơn để linh hoạt điều chỉnh hoạt
động dạy, chỉ đạo hoạt động học.
Từ dạy và học thụ động sang dạy và học tích cực, giáo viên không còn đóng vai trò đơn
thuần là người truyền đạt kiến thức, giáo viên trở thành người thiết kế, tổchức, hướng dẫn các
hoạt động độc lập hoặc theo nhóm nhỏ để học sinh tự lực chiếm lĩnh nội dung học tập, chủ động
đạt các mục tiêu kiến thức, kĩ năng, thái độ theo yêu cầu của chương trình. Trên lớp, học sinh
hoạt động là chính, giáo viên có vẻ nhàn nhã hơn nhưng thực chất là giáo viên đã phải đầu tư
công sức, thời gian rất nhiều so với kiểu dạy và học thụ động thì mới có thể thực hiện bài lên lớp
với vai trò là người gợi mở, xúc tác, động viên, cố vấn, trọng tài trong các hoạt động tìm tòi hào
hứng, tranh luận sôi nổi của học sinh. Mặt khác, giáo viên phải có trình độ chuyên môn vững
vàng, có trình độ sư phạm lành nghề mới có thể tổ chức, hướng dẫn các hoạt động của học sinh
một cách có hiệu quả
Có thể so sánh đặc trưng của dạy học truyền thống và dạy học hiện đại như sau:
Dạy học truyền thống
Các mô hình dạy học hiện đại
Quan niệm
Học là quá trình tiếp thu và Học là quá trình kiến tạo; học sinh tìm
lĩnh hội, qua đó hình thành tòi, khám phá, phát hiện, luyện tập, khai
kiến thức, kĩ năng,tư tưởng, thác và xử lí thông tin, .. tự hình thành
tình cảm.
hiểu biết, năng lực và phẩm chất
Bản chất
Truyền thụ tri thức, truyền thụ và Tổ chức hoạt động nhận thức cho học
chứng minh chân lí của giáo viên sinh. Dạy học sinh cách tìm ra chân lí
41
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "SKKN Đổi mới phương pháp dạy học ở Trường Trung học cơ sở", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
skkn_doi_moi_phuong_phap_day_hoc_o_truong_trung_hoc_co_so.doc