SKKN Một số kinh nghiệm về công tác chủ nhiệm lớp
Tuổi học sinh THCS là tuổi có sự khủng hoảng trong phát triển vì đây là thời kỳ giao thời giữa trẻ con và người lớn. Các em không hẳn còn là trẻ con nhưng lại chưa phải là người lớn. Do đó, trong các em chứa đựng nhiều mâu thuẫn. Các em đang trẻ con nhưng lại mong muốn được coi là người lớn. Trong khi đó, người lớn chưa thừa nhận các em là người lớn vì các em còn nhiều biểu hiện là trẻ con. Các em còn bị phụ thuộc vào gia đình về tất cả các mặt. Phải khẳng định rằng, mặc dù học sinh THCS còn nhiều biểu hiện là trẻ con nhưng trong một số tình huống nhiều em lại tỏ ra chững chạc. Nhiều lúc các em rất nghiêm túc, nhưng nhiều lúc lại có những hành vi rất nghịch ngợm. Nhiều lúc rất ngoan ngoãn nhưng nhiều lúc lại rất bướng bỉnh.
UBND QUẬN ĐỐNG ĐA
TRƯỜNG THCS THÁI THỊNH
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ KINH NGHIỆM VỀ CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LỚP
Tên tác giả:
Nguyễn Thị Thanh
Giáo viên môn: Ngữ văn
NĂM HỌC: 2013 -2014
KÝ HIỆU VÀ VIẾT TẮT
SKKN
GVCN
GV
: Sáng kiến kinh nghiệm.
: Giáo viên chủ nhiệm
: Giáo viên.
HS
: Học sinh.
THCS
THPT
GVBM
HT
: Trung học cơ sở.
: Trung học phổ thông.
: Giáo viên bộ môn,
: Học tập.
PHHS
HĐNGLL
GD
: Phụ huynh học sinh.
: Hoạt động ngoài giờ lên lớp.
: Giáo dục.
GĐ
: Gia đình.
PPKLTC
: Phương pháp kỉ luật tích cực.
PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài:
Công tác chủ nhiệm lớp ra đời cách đây mấy trăm năm, sau khi xuất hiện hệ
thống tổ chức nhà trường theo lí luận của Coomenxki và tồn tại cho đến ngày nay.
Vì trường đông HS, cần chia nhỏ thành lớp, quản lí HS mỗi lớp là GVCN.
Hàng trăm năm, chức năng cơ bản nhất của GVCN là đại diện của Hiệu trưởng
quản lí hoạt động học tập, sinh hoạt của một lớp học trong nhà trường. Vì vậy
GVCN được coi là “Một hiệu trưởng nhỏ”. Hiện nay do yêu cầu mới mà vai trò, vị
trí của GVCN có những thay đổi rất lớn.
Yêu cầu của XH cần đào tạo được những thế hệ lao động thông minh, sáng tạo,
năng động, biết kết hợp giữa lao động chân tay và lao động trí óc, giữa lí luận với
thực tiễn, có kiến thức sâu rộng và có năng lực vận dụng kiến thức vào thực tế. Có
xúc cảm, tình cảm, có niềm tin sâu sắc vào sự phát triển của dân tộc dưới sự lãnh
đạo của Đảng và nhà nước. Có bản lĩnh chính trị vững vàng trong mọi tình huống,
có sức khỏe về thể chất và tinh thần.
Môi trường xã hội phức tạp, đòi hỏi phải đổi mới phương thức tổ chức tác động
giáo dục. Ta đã biết “bản chất của con người là tổng hòa các quan hệ xã hội”. Ngày
nay dưới tác động của các phương tiện thông tin đại chúng, việc Hội nhập mở cửa
giao lưu toàn cầu đã dẫn tới sự giao thoa giữa các môi trường vi mô và vĩ mô, điều
đó đòi hỏi phải thống nhất các ảnh hưởng, các tác động của các loại môi trường.
Song, giáo dục trong nhà trường mà trực tiếp là đội ngũ cán bộ quản lí nhà trường
và GVCN là lực lượng chịu trách nhiệm chính
Một thực tế ai cũng thấy mục tiêu, chất lượng giáo dục ngày càng đòi hỏi cao,
môi trường sống ngày càng phong phú, phức tạp. Chỉ có thể giải quyết mâu thuẫn
trên bằng một giải pháp tạo ra sự thống nhất các hoạt động giáo dục. Như vậy trách
nhiệm không nhỏ đặt lên vai đội ngũ GVCN
Một thực tế không thể bỏ qua đó là thanh thiếu niên ngày càng có những đặc
điểm rất đáng quan tâm, rất cần sự sát sao của GVCN. Bởi xã hội ngày càng phát
triển, đời sống cũng được nâng cao. Do ảnh hưởng của nhiều yếu tố vật chất được
nâng cao, ảnh hưởng của văn hóa phẩm, của các tác động XH tích cực và tiêu cực
cả trong và ngoài nước; các em được sống trong XH dân chủ, bình đẳng, cởi mở
hơn, các em có cơ hội, có điều kiện tham gia vào nhiểu lĩnh vực của cuộc sống, các
hoạt động vui chơi giải trí... Từ thực tế ấy, một bộ phận không nhiều, các em có
nhận thức, có ý chí, bản lĩnh biết tận dụng thời cơ, điều kiện học tập để trở thành
những người toàn diện....Nhưng cũng còn một bộ phận chưa có kinh nghiệm sống,
phẩm chất tâm lí, bản lĩnh chưa vững vàng rất khó khăn trong sự lựa chọn, xác
định phương hướng học tập rèn luyện đúng đắn cho mình, vì vậy vai trò của các
GVCN là đặc biệt quan trọng.
Để có thể làm tốt công tác chủ nhiệm, GVCN trước hết phải xây dựng tập thể
lớp vững mạnh là yêu cầu giáo dục bắt buộc của tất cả các trườngTHCS, THPT, đó
cũng là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của GVCN. Một tập thể lớp vững mạnh sẽ là
động lực thúc đẩy mọi hoạt động khác, nhất là hoạt động học tập ở nhà trường. Khi
giáo viên làm tốt công tác chủ nhiệm và có phương pháp tốt sẽ tạo điều kiện và có
thời gian để bồi dưỡng và hoàn thành tốt chuyên môn của mình.
Công tác chủ nhiệm được tổ chức có mục đích, có kế hoạch, thông qua hoạt
động và quan hệ giữa người giáo dục và người được giáo dục nhằm chiếm lĩnh tri
thức của loài người. Giáo dục là quá trình tác động tới thế hệ trẻ về đạo đức, tư
tưởng, hành vi ...nhằm hình thành niềm tin, lý tưởng, động cơ, thái độ, hành vi,
thói quen ứng xử đúng đắn trong xã hội. Khi bàn về vai trò của giáo dục trong sự
phát triển nhân cách con người, Bác Hồ đã viết trong bài thơ “Nửa đêm” (trích
“Nhật ký trong tù”):
“Hiền dữ phải đâu là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên”
Theo quan niệm của Hồ Chí Minh, con người ta khi mới sinh ra vốn bản chất là
tốt, nhưng sau do ảnh hưởng của giáo dục và môi trường sống cùng sự phấn đấu,
rèn luyện của mỗi cá nhân mà hình thành những con người thiện, ác khác nhau.
Câu nói của người xưa trong Tam Tự Kinh: “Nhân chi sơ, tính bản thiện” đã từng
được Người nhắc lại nhiều lần trong các bài viết, bài nói chuyện. Theo Bác, con
người sinh ra bản chất là tốt, song trong xã hội luôn có thiện và có ác nên trong bản
thân mỗi con người cũng có thiện và ác. Cái ác có là do ảnh hưởng của xã hội và
sự biến đổi của mỗi người. Do đó, giáo dục là một nhiệm vụ vô cùng cần thiết để
rèn luyện, biến đổi dần dần tính cách con người, hướng người ta đến sự hoàn thiện
của một nhân cách tốt đẹp, xây dựng một xã hội với những con người có ích và
hướng thiện.
Đối với nước ta, giáo dục được xác định là “quốc sách hàng đầu”, là vô cùng
quan trọng và cấp thiết bởi sự thành đạt của mỗi người, sự phát triển của một thế
hệ, sự hưng thịnh của đất nước đều phụ thuộc vào kết quả của hoạt động giáo dục
“Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”. Hơn thế, trong
thời đại hội nhập kinh tế, công nghệ thông tin phát triển như vũ bão hiện nay thì
giáo dục lại vô cùng cần thiết. Làm thế nào để những người chủ tương lai của đất
nước có đủ đức lẫn tài? Làm thế nào để sự nghiệp giáo dục mang lại hiệu quả tốt?
Đây chính là trách nhiệm chung của toàn xã hội, của tất cả những người làm công
tác giáo dục, đặc biệt là của người giáo viên chủ nhiệm lớp – người trực tiếp và
thường xuyên tiếp xúc với các em học sinh.
Là một giáo viên chủ nhiệm lớp, tôi rất mong muốn học trò của mình là những
con ngoan, trò giỏi, tài đức vẹn toàn để sau này lớn lên các em tự tin, năng động,
bản lĩnh bước vào đời, trở thành những người công dân có ích cho xã hội.
Về bản thân, tôi rất mong muốn mình là cô giáo được học sinh yêu quý, kính trọng,
phụ huynh tin tưởng khi gửi gắm con em mình đến để giáo dục, dạy dỗ, góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục của trường nói riêng và của xã hội nói chung.
II. Cơ sở thực tiễn
Trong xã hội hiện nay, nền kinh tế thị trường làm cho đời sống, ý thức của người
dân được cải thiện hơn, ai cũng từ chỗ “no cơm ấm áo” dần dần tiến tới “ăn ngon
mꢀc đꢁp”, chăm lo cho tương lai con cái nhiều hơn; chính sách mở cửa, giao lưu
kinh tế, văn hóa giữa các nước cũng rất đa dạng. Điều đó đã tác động ít nhiều đến
sự nhận thức, hiểu biết của học sinh. Cho nên ta dễ dàng nhận thấy học sinh ngày
nay thông minh, nhanh nhẹn, sáng tạo và hiểu biết hơn rất nhiều. Đúng như ông
cha ta đã từng nói: “Hꢂu sinh khả uꢃ”. Đây là một điều rất đáng mừng vì: “Con
hơn cha là nhà cꢄ phꢅc”.
Tuy nhiên ta không thể không bàn tới mặt trái của nền kinh tế thị trường. Những
cái xấu đã và đang len lỏi vào thế hệ trẻ. Nó có th ể làm lu mờ lí trí, bôi đen nhân
cách của con người, đặc biệt ở tuổi các em khiến những người làm công tác giáo
dục, các bậc phụ huynh phải băn khoăn, lo lắng. Qua thực tế, ta nhận thấy đạo đức
học sinh đang trên đà đi xuống, đạo hiếu, truyền thống “Tôn sư trꢆng đꢇo” dường
như bị xem nhẹ, quan hệ giữa người với người dần bị rất nhiều yếu tố chi phối. Rồi
các tệ nạn xã hội như lưu truyền, tiếp xúc văn hóa phẩm đồi trụy, cờ bạc, ma túy
…có thể nói đây là mối hiểm hoạ đang hàng ngày đe doạ các em. Đau lòng hơn
nữa là có những học sinh xem thường, vô lễ, thậm chí chống đối lại thầy cô giáo
đang dạy mình ….mà đằng sau đó là sự chưa nghiêm khắc của gia đình. Thực
trạng này luôn là rào cản, gây khó khăn cho những người làm công tác chủ nhiệm
lớp. Bởi giáo viên chủ nhiệm không đơn thuần là quản lí các em mà còn phải dạy
dỗ, phải chịu trách nhiệm về mặt học tập, đạo đức của các em. Tôi luôn nghĩ, các
em là những cây còn rất non nớt, cô giáo chủ nhiệm là người thay mặt nhà trường
(cùng với cha mẹ các em) uốn nắn, định hướng cái cây ấy để cây được lớn lên đủ
độ cứng cáp, vững chãi, bản lĩnh sẵn sàng chống chọi lại vô vàn thử thách, bão táp
của cuộc đời. Do đó, chủ nhiệm lớp là một công việc khó khăn nhưng cũng rất thú
vị.
Công tác chủ nhiệm là một công việc gắn bó với người giáo viên .Vì vậy, đối
với mỗi nhà giáo trong quá trình đảm nhiệm trọng trách này đều tích luỹ cho mình
một số kinh nghiệm riêng. Bản thân tôi đã chủ nhiệm khá nhiều năm và cũng dành
khá nhiều thời gian, tâm tâm huyết cho công tác chủ nhiệm. Hôm nay tôi mạnh dạn
trình bày đề tài “Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp” đây là
những gì tôi đã làm và xin được mạn phép gọi là “kinh nghiệm” từ quá trình chủ
nhiệm lớp của bản thân tôi trong hơn 20 năm nay. Rất mong sự góp ý chân thành
của các bạn đồng nghiệp cùng các cấp để tôi ngày càng có thêm nhiều kinh nghiệm
qúy báu trong công tác chủ nhiệm lớp, giúp tôi hoàn thành công tác tốt hơn và
cũng là hoàn thiện bản thân mình hơn.
III.Phạm vi thực hiện:
Trong nhiều năm học, đặc biệt là trong những năm gần đây.
PHẦN NỘI DUNG
I. ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH:
1. Thuận lợi:
- Được sự quan tâm của chi bộ Đảng, Ban Giám Hiệu, Công đoàn giáo dục cơ sở
cùng sự giúp đỡ của tất cả HĐSP nhà trường.
- Giáo viên chủ nhiệm nhiệt tình, yêu quý, gần gũi với học sinh, thích học hỏi,
tìm tòi sáng tạo, là người trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn nên thời gian tiếp xúc
với lớp chủ nhiệm khá nhiều (4- 5 tiết/ 1 tuần)
- Đội ngũ các thầy cô giáo bộ môn nhiệt tình, yêu nghề và có trách nhiệm cao,
chuyên môn vững vàng.
- Hầu hêt các phụ huynh học sinh đều rất quan tâm đến việc học của các em,
nhiệt tình phối kết hợp với cô giáo chủ nhiệm để cùng giáo dục con em mình.
- Đội ngũ cán sự lớp tập trung những thành viên khá tích cực, ham hoạt động, rất
có ý thức trách nhiệm đối với công việc được giao.
2. Khꢀ khăn:
- Trước đây tôi dạy ở một trường làng tại vùng ven đô: An Khánh- Hoài Đức
HàTây(cũ)
- Hầu hết con em nông dân nên bố mẹ ít khi quan tâm đến con cái, đặc biệt là việc
học, hầu như phó thác cho nhà trường.
- Nhiều em hoàn cảnh khó khăn phải phụ giúp gia đình, ít có thời gian dành cho
việc học.
- Đa số học sinh chưa có ý thức học tập, còn ham chơi đàn đúm. Đặc biệt ở nông
thôn việc học tập các em còn a dua theo nhau, bạn đi học thì mình đi, bạn nghỉ
mình không có người để cùng đi thế là một em nghỉ kéo theo tất cả số học sinh tại
thôn đó. Đây là một điều vô cùng phức tạp, khi chúng tôi đến gia đình vận động
các em đến lớp.
- Một số phụ huynh học sinh phải vất vả kiếm sống, ít có điều kiện quan tâm
chăm sóc con cái (Như thường xuyên đi công tác xa, đi làm ăn xa, buôn bán đường
dài...vài tháng mới về một lần gửi con ở nhà ngoại, nội, dì, cậu, chú, bác, …)
- Bản thân tôi thường xuyên đón lớp 9 và đặc biệt những lớp tập trung nhiều học
sinh cá biệt, mải chơi, ý thức kỉ luật chưa tốt, gia đình chưa thật sự quan tâm...nên
công tác chủ nhiệm rất vất vả.
- Nhiều khi quá vất vả, tôi chỉ muốn buông xuôi nhưng khi tiếp xúc với HS, gần
gũi, trò chuyện, chia sẻ cùng các em, tôi thấy chúng chưa đến mức khiến cho mình
phải bất lực, buông xuôi hoặc. Có lẽ chính sự gần gũi, chia sẻ cùng các em, tôi đã
thấy chúng rất cần đến sự quan tâm của cô giáo chủ nhiệm.
- Có thể nói vô vàn khó khăn cho công tác chủ nhiệm, xong tôi thiết nghĩ nếu
thật sự tâm huyết với nghề, coi các em như con mình chắc chắn ta sẽ thành công
trong sự nghiệp “trồng người”
- Năm 2008 tôi chuyển về trường THCS Thái Thịnh - Đống Đa - Hà Nội
- BGH cũng giao cho tôi chủ nhiệm và dạy lớp 9B, đây là lớp có số học sinh lười
học, học lực yếu kém chiếm đến ½ lớp
- Khi đó tôi vừa phải làm quen với một môi trường làm việc, các đồng nghiệp
hoàn toàn mới, đối tượng HS cũng hoàn toàn khác, lại phải chịu một áp lực rất lớn
về chất lượng thi vào lớp 10.-> Tất cả đối với tôi bắt đầu từ con số (0).
- Buổi họp phụ huynh đầu tiên tôi thấy khá căng thẳng bởi trước đây phụ huynh
của tôi là những người nông dân chân lấm tay bùn, mộc mạc, chân chất. Còn phụ
huynh của lớp 9B thì đủ các đối tượng.
II. Một số kinh nghiệm:
1. Chức năng, nhiệm vụ của GVCN:
Trong giai đoạn hiện nay, do yêu cầu của đổi mới giáo dục, người GVCN phải là sự
tổng hợp nhân cách, năng lực của một nhà SP, một nhà quản lý, một cố vấn cho các tổ
chức XH và gia đình, là tư vấn cho tất cả HS trong học tập, rèn luyện và hoạt động XH,
GVCN còn phải là một nhà hoạt động chính trị văn hóa xã hội.
Điểm mới, khác chủ yếu GVCN hiện nay so với trước là ở chỗ: GVCN là người thiết
kế, tổ chức quan hệ phối hợp các lực lượng trong và ngoài nhà trường nhằm thực hiện
mục tiêu giáo dục toàn diện, phát triển tiềm năng của XH và nhà trường, phát huy tốt
nhất, tối đa khả năng của HS.
Ta có thể thấy rõ hơn qua bảng so sánh sau đây:
TT
1
Trước đây
Hiện nay cần làm
Quản lý hoạt động DH - Cố vấn cho HS tổ chức mọi hoạt động (HĐGD
trên lớp
NGLL là trọng tâm) nhằm GD đạo đức, lối sống và
phát triển các năng lực, giáo dục hướng nghiệp.
2
3
Chỉ quản lý HS ở lớp ở - Phối hợp với các lực lượng XH tạo điều kiện
không gian, thời gian cho HS học tập, rèn luyện
(khép kín không gian)
trường
- Giúp HS và tập thể lớp tự đánh giá quá trình rèn
luyện theo mục tiêu GD, thời gian hoạt động của
HS.
Trực tiếp nhận xét
- Phối hợp, tiếp thu nhận xét đánh giá của GV và
các tổ chức GD khác để đánh giá khách quan quá
đánh giá kết quả học
tập hạnh kiểm của HS trình rèn luyện của HS
4
5
Thông báo kết quả trực - Thông báo qua cộng đồng nơi ở (tổ dân phố, cơ
tiếp cho gia đình quan cha mẹ công tác, tổ chức Đội và Đoàn...)
Không yêu cầu GVCN - Cần tổ chức trang bị trình độ SP, phổ biến mục
phải làm
tiêu, kế hoạch GD cho các bậc cha mẹ và các lực
lượng XH có liên quan
6
7
Không yêu cầu
Không yêu cầu
- Phát hiện năng khiếu và sở thích, bồi dưỡng các
loại HS (giỏi, yếu, có năng khiếu các loại)
- Kế hoạch hóa việc tổ chức bồi dưỡng, rèn luyện
các loại kỹ năng cho tất cả HS thông qua bố trí đội
ngũ cán bộ tự quản và hoạt động của lớp, tổ chức
các câu lạc bộ
8
9
Không yêu cầu
Không yêu cầu
- Xây dựng Hội cha mẹ thành lực lượng tham gia
trực tiếp vào các hoạt động của lớp chủ nhiệm
- Kế hoạch hóa việc sử dụng mọi tiềm năng của GĐ
và XH vào phục vụ các hoạt động GD của lớp CN
và của trường
10 Không yêu cầu
11 Không yêu cầu
Phản ánh những nguyện vọng chính đáng của HS
với những người có trách nhiệm để giải quyết (hiệu
trưởng, GV môn học, gia đình, các tổ chức XH).
Tư vấn cho HS lựa chọn nghề nghiệp (GD hướng
nghiệp)
-Phối hợp với các lực lượng trong và ngoài nhà
trường định hướng phân ban và giáo dục hướng
nghiệp (THPT)
Để thực hiện được chức năng, nhiệm vụ công tác chủ nhiệm trong giai đoạn mới
đòi hỏi thầy cô giáo chủ nhiệm phải có:
- Trí: Không chỉ là kiến thức môn học mà còn cần kiến thức nghệ thuật, giáo
dục, về quản lý giáo dục, về các kiến thức khoa học xã hội, nhân văn về chính trị.
Phải có kiến thức thực tế, phải cập nhật với kiến thức mới, hiện đại.
- Tâm: Là hệ thống các giá trị nhân cách, Tâm còn là lý tưởng nghề nghiệp
(đam mê với nghề), Tâm còn là tác phẩm tâm lý ( ý chí, nghị lực bình tĩnh, tự kiềm
chế, năng động, sáng tạo) là cuộc sống tâm hồn, sống lạc quan, yêu đời.
- Tầm: Tầm nhìn là phương pháp luận giải quyết biện chứng các sự kiện, hiện
tượng giáo dục, tổ chức giáo dục theo một hệ thống viễn cảnh (từ gần đến trung
bình và xa).
2. Giáo viên chủ nhiệm cần cꢀ những yêu cầu sư phạm cơ bản:
Có thể nói thế kỉ thứ XXI là thế kỉ của khoa học công nghệ, con người phải
nhanh chóng trở thành trung tâm của sự phát triển,Vì vậy người giáo viên phải
không ngừng nâng cao hiệu quả giáo dục để đào tạo thế hệ trẻ có đầy đủ phẩm
chất, trí tuệ... đáp ứng nhu cầu của xã hội. Muốn đảm bảo tốt vai trò ấy thì giáo
viên nói chung và giáo viên chủ nhiệm nói riêng phải có phẩm chất và năng lực
mới có thể hoàn thành được nhiệm vụ vô cùng quan trọng này.
Thứ nhất, giáo viên chủ nhiệm phải có lòng yêu nghề mến trẻ, am hiểu, nắm
bắt sâu sắc chủ trương đường lối giáo dục của Đảng và Nhà nước trong thời kì đổi
mới, phải có tình yêu và niềm tin ở các em. Chính tình yêu và niềm tin ấy sẽ tiếp
thêm nghị lực để giáo viên hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
Thứ hai, giáo viên chủ nhiệm phải có “chữ tꢀn” với phụ huynh và học sinh,
phải khéo léo trong cách hành xử với các em, tôn trọng và yêu mến biết chia sẻ với
học sinh. Khi yêu mến và tôn trọng học sinh thì ta mới thực sự cảm hóa được
chúng, bởi tâm hồn các em như một tờ giấy trắng, nên khi giáo dục các em thì hiệu
quả nhất là tác động đến tình cảm.
Thứ ba, giáo viên chủ nhiệm đồng thời phải là người có chuyên môn vững
vàng có tay nghề cao. Có dạy tốt, có kiến thức sâu thì học sinh mới phục và chấp
nhận sự giáo dục của mình. Mỗi ngày xung quanh chúng ta có bao nhiêu kiến thức
mới lạ nếu chúng ta không “Hꢁc, hꢁc nữa, hꢁc mꢂi” thì sẽ không theo kịp, không
đáp ứng được yêu cầu của thời đại cũng như của học sinh.
Thứ tư, giáo viên chủ nhiệm phải là tấm gương sáng cho các em noi theo, phải
là ngọn đèn soi đường dẫn lối cho các em. Vậy muốn làm được điều đó thì từng lời
nói cử chỉ, điệu bộ đến thái độ ứng xử phải có chuẩn mực, đúng đắn tránh để học
sinh “Coi nhẹ, xem thường” thực tế cho thấy giáo viên được sự tôn trọng kính yêu
của học sinh thì công tác giáo dục sẽ dễ dàng đạt hiệu quả.
Nói tóm lại, giáo viên chủ nhiệm phải là một công dân gương mẫu có lối
sống lành mạnh, biết sống vì mọi người, không chỉ cần có cái “Tài” mà còn phải
có một cái “Tâm” rất lớn.
3. GVCN cần nắm vững đăc điểm phát triển của học sinh THCS.
Tuổi học sinh THCS là tuổi có sự khủng hoảng trong phát triển vì đây là thời kỳ
giao thời giữa trẻ con và người lớn. Các em không hẳn còn là trẻ con nhưng lại
chưa phải là người lớn. Do đó, trong các em chứa đựng nhiều mâu thuẫn. Các em
đang trẻ con nhưng lại mong muốn được coi là người lớn. Trong khi đó, người lớn
chưa thừa nhận các em là người lớn vì các em còn nhiều biểu hiện là trẻ con. Các
em còn bị phụ thuộc vào gia đình về tất cả các mặt. Phải khẳng định rằng, mặc dù
học sinh THCS còn nhiều biểu hiện là trẻ con nhưng trong một số tình huống
nhiều em lại tỏ ra chững chạc. Nhiều lúc các em rất nghiêm túc, nhưng nhiều lúc
lại có những hành vi rất nghịch ngợm. Nhiều lúc rất ngoan ngoãn nhưng nhiều lúc
lại rất bướng bỉnh.
Những đặc điểm chính trong sự phát triển của học sinh THCS là:
- Điều dễ nhận thấy là sự thay đổi về địa vị của học sinh THCS trong gia đình.
Trẻ em lứa tuổi học sinh THCS đã ý thức được các nhiệm vụ được người lớn giao
phó và thực hiện những công việc này một cách tích cực. Các em đã quan tâm đến
việc xây dựng, bảo vệ uy tín của gia đình và thể hiện trách nhiệm của mình đối với
những thành viên khác trong gia đình.
- Do khao khát được giao tiếp và cùng hoạt động chung, do nhu cầu được bạn bè
thừa nhận, tôn trọng mình nên quan hệ của học sinh THCS với bạn bè cùng lứa
tuổi trở nên phức tạp, đa dạng. Các em cho rằng các em có quyền hành động độc
lập trong quan hệ này và bảo vệ quyền đó của mình. Sự thiếu thốn bạn thân hoặc
bất hoà trong quan hệ bạn bè cùng lớp rất dễ dẫn đến những cảm xúc nặng nề ở
học sinh THCS. Sự tẩy chay của bạn bè có thể được xem như hình phát nặng nề
nhất đối với các em.
- Học sinh THCS rất hào hứng tham gia các hoạt động xã hội. Các em cho rằng
hoạt động xã hội là việc làm của người lớn và có ý nghĩa lớn lao. Do đó được tham
gia các hoạt động xã hội là thể hiện mình đã là người lớn.
- Nhu cầu tự khẳng định ở học sinh THCS phát triển rất mạnh mẽ. Các em rất
muốn được thể hiện mình trước mọi người và muốn người lớn thừa nhận sự trưởng
thành của các em không chỉ là thể xác mà cả vị thế của các em trong gia đình, nhà
trường và trong các hoạt động xã hội. Đặc biệt, học sinh THCS có nhu cầu mở
rộng quan hệ với người lớn và mong muốn người lớn quan hệ với các em một cách
bình đẳng. Vì thế các em mong muốn cải tổ lại mối quan hệ với người lớn (đặc biệt
là với cha mẹ, anh chị và thầy cô giáo) theo chiều hướng hạn chế quyền hạn của
người lớn, mở rộng quyền hạn của mình. Các em mong muốn người lớn tôn trọng
các em, tin tưởng và trao quyền tự lập cho các em.
- Tình cảm của học sinh THCS bắt đầu biết phục tùng lý trí, tình cảm đạo đức đã
phát triển mạnh và sâu sắc, phức tạp hơn so với lứa tuổi trước đó. Đặc điểm nổi
bật ở lứa tuổi này là dễ xúc động, dễ bị kích động, tình cảm còn mang tính bồng
bột, khả năng kiềm chế còn kém. Khi tham gia các hoạt động vui chơi, học tập, lao
động, các em đều thể hiện tình cảm rất rõ rệt và mạnh mẽ.
4. GVCN với phương pháp kỷ luật tích cực trong xây dựng môi trường dạy
học và giáo dục
- PPKLTC có nhiều ưu thế trong việc giúp giáo viên xây dựng môi trường học
tập thân thiện, có tác động tích cực đến hoạt động của học sinh. Khi áp dụng thành
công PPKLTC, giáo viên sẽ giảm được áp lực công việc quản lý lớp học vì học
sinh hiểu và chấp hành nội quy một cách tự nguyện và có trách nhiệm hơn. Giáo
viên sẽ ít cảm thấy tức giận, căng thẳng trong việc đối xử và kỷ luật học sinh hơn.
Mối quan hệ giữa thầy và trò cũng trở nên cởi mở, gần gũi, thân thiện hơn. Không
khí ở lớp học, sân trường sẽ vui vẻ, thoải mái hơn. Từ đó, chất lượng của việc
giảng dạy của giáo viên cũng sẽ được cải thiện.
- Xây dựng môi trường tâm lý: Loại môi trường này thể hiện rõ qua bầu không
khí tập thể nơi diễn ra hoạt động học tập của học sinh. Bầu không khí này lại phụ
thuộc vào mối quan hệ giữa giáo viên với học sinh, giữa học sinh với nhau và mức
độ tham gia của học sinh vào các hoạt động do giáo viên thiết kế, tổ chức.
- Vấn đề tiếp theo là thiết kế các hoạt động lôi cuốn đươc sự tham gia của học
sinh trong quá trình học tập cũng như các hoạt động giáo dục khác. Mức độ tham
gia của học sinh vào các hoạt động này không chỉ phản ánh mức độ tích cực của
học sinh mà còn là tác nhân tạo ra bầu không khí thuận lợi cho hoạt động học tập
của chính các em và bạn học. Tuy nhiên, để có các hoạt động đạt đến mục đích nêu
trên, giáo viên phải am hiểu về nhu cầu của học sinh, phải nắm vững các đặc điểm
phát triển theo lứa tuổi của các em, đặc biệt cần am hiểu về các hoạt động cơ bản
theo lứa tuổi của học sinh. Nội dung của PPKLTC có tác dụng trong việc khởi
xướng và điều chỉnh các hoạt động do giáo viên thiết kế và tổ chức. Một hậu quả
tự nhiên có thể là lôgic để dẫn đến một hoạt động mà đương nhiên học sinh phải
thực hiện. Một hệ quả lôgic có thể là điểm khởi đầu cho một hoạt động mới với tư
cách là can thiệp của giáo viên đối với học sinh.v.v.
- Xây dựng môi trường xã hội: Môi trường này hình thành do những vị thế khác
nhau của học sinh trong đời sống gia đình và xã hội mang vào lớp học. Học sinh
thường không ý thức được vấn đề này nên không phân biệt được cách hành xử
trong lớp học sẽ khác với cách hành xử của các em trong quan hệ gia đình, xã hội
tương ứng với vị thế của các em. Đã có nhiều giáo viên gặp phải khó khăn khi giải
quyết những bất hòa giữa các nhóm học sinh. Các nhóm học sinh này được hình
thành tự phát và phân biệt với nhau bởi hoàn cảnh xuất thân và điều kiện kinh tế
gia đình của các học sinh trong nhóm.
-Vận dụng PPKLTC, giáo viên cần xóa bỏ những rào cản về phương diện xã hội
có thể nảy sinh trong lớp học. Điều này đồng nghĩa với việc giáo viên cần làm cho
các học sinh trong lớp ý thức được sự bình đẳng về vai trò của các em trong lớp
học. Mọi học sinh trong lớp học đều như nhau về vài trò – vai trò của một người
học cho dù hoàn cảnh xuất thân và điều kiện kinh tế của học sinh đó như thế nào.
Để làm được việc này, giáo viên cần chủ động thiết nối quan hệ giữa các nhóm học
sinh thông qua các hoạt động chung. Các hoạt động này phải là những hoạt động
mà người chơi chỉ có thể cùng chơi khi cùng đóng một vai trò.
5. Một số biện pháp của GVCN đối với tập thể lớp:
5.1. Phải nꢈm rõ, nꢈm vững tình hình lớp chꢉ nhiệm:
Để lớp đi vào nề nếp, chăm chú học tập, tham gia hoạt động tốt tôi đã bám sát
kế hoạch giảng dạy từng học kì, kế hoạch Đoàn Đội để đề ra kế hoạch hoạt động
cho lớp chủ nhiệm. Lớp tiến hành hoạt động theo sự quản lí và theo dõi của Ban
Cán sự lớp có sự kiểm tra đôn đốc của GVCN. ꢀ mỗi tuần, mỗi tháng tôi đều có
lời khen đúng lúc cũng như kịp thời uốn nắn những hành vi sai trái.
Việc làm này tôi thực hiện thường xuyên liên tục, kiên trì không hề bỏ qua dù
bất cứ lí do nào. Tôi luôn luôn giữ uy tín đối với học sinh, nói và làm luôn đi đôi
với nhau, việc làm phải tới nơi tới chốn. Là giáo viên chủ nhiệm cũng là giáo viên
dạy bộ môn Ngữ Văn ở lớp, tôi luôn ứng dụng phương pháp mới. Sử dụng thường
xuyên đồ dùng dạy học trực quan, đầu tư giáo án điện tử để thu hút học sinh, tạo
hứng thú học tập cho các em. Bởi giáo viên không có trình độ, kiến thức thì khó
mà thành công trong công tác giáo dục.
Ngoài ra, tôi còn sắp xếp thời gian để đọc nhiều tài liệu, thường xuyên theo dõi
thời sự, tin tức,… nhằm làm phong phú kiến thức cho bản thân từ đó giúp cho việc
giáo dục học sinh đạt hiệu quả cao hơn.
Giáo viên chủ nhiệm phải là một người khéo léo, ứng xử và giao tiếp tốt.
Nghĩa là giáo viên phải có kĩ thuật sư phạm trong mọi tình huống, phải nhẹ nhàng,
tế nhị, phải tôn trọng danh dự của học sinh. Đến lớp giáo viên luôn tạo sự vui vẻ
lạc quan nhiệt tình không nên chán nản, buồn rầu nhất là những chuyện buồn của
cá nhân. Khi vào lớp phải ăn mặc chỉnh tề, gọn gàng, lịch sự nhằm tạo ấn tượng tốt
đẹp cho học sinh cũng như phụ huynh học sinh vì muốn người khác tôn trọng ta thì
trước hết ta phải tôn trọng người, đặc biệt phải tôn trọng chính mình.
Bước 1: Điều tra lí lịch học sinh qua phiếu Sơ yꢊu lí lꢋch vào tuần đầu tiên của
năm học mới với các nội dung sau:
Muốn giáo dục học sinh thì phải hiểu được tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của
các em. Nhưng làm thế nào để hiểu được những đều ấy một cách tường tận. Theo
tôi chúng ta phải tiếp xúc thường xuyên với chúng, gần gũi, trò chuyện, chia sẻ,
tìm hiểu về hoàn cảnh, đặc điểm tâm sinh lí, tính tình sở thích… của các em. Vì
vậy trước tiên khi phụ trách một lớp tôi đã tìm hiểu học sinh qua các mặt.
Thành phần gia đình:
+ Con thương binh, liệt sĩ
+ Con dân tộc thiểu số
+ Con mồ côi cha mẹ
+ Học sinh có hoàn cảnh khó khăn về kinh tế
+ Địa bàn cư trú
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số kinh nghiệm về công tác chủ nhiệm lớp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- skkn_mot_so_kinh_nghiem_ve_cong_tac_chu_nhiem_lop.pdf