SKKN Một số phương pháp dạy học Giải toán bằng cách lập phương trình, hệ phương trình theo định hướng phát triển năng lực học sinh

Khi dạy học môn Toán cấp THCS, do đặc điểm lứa tuổi và yêu cầu của cấp học người ta có phần châm chước, nhân nhượng về tính lôgic. Cụ thể là : Mô tả (không định nghĩa) một số khái niệm không phải là nguyên thuỷ, thừa nhận (không chứng minh) một số mệnh đề không phải là tiên đề, hoặc chấp nhận một số chứng minh chưa chặt chẽ. Tuy vậy, nhìn chung chương trình toán THCS vẫn mang tính lôgic, hệ thống: Tri thức trước chuẩn bị cho tri thức sau, kiến thức được sắp xếp như một chuỗi mắt xích liên kết với nhau chặt chẽ. Bởi thế học sinh muốn lĩnh hội được các kiến thức toán học thì phải có sự chuẩn bị, có trình độ phát triển tư duy phù hợp với yêu cầu của chương trình. Cụ thể là phải nhận thức được mối liên hệ giữa các kiến thức, biết suy luận để tìm ra những tính chất mới từ những tính chất đã biết, vận dụng các kiến thức đó để giải các bài tập đa dạng. Như vậy, rõ ràng học sinh phải có những năng lực nhất định, biết vận dụng kiến thức cũ để đến kiến thức mới. Bằng chứng cụ thể là trong chương trình toán ở trường THCS rất nhiều bài yêu cầu người thầy cần có những phương pháp dạy khác nhau để có thể giúp học sinh hình thành và phát triển năng lực. Tuy nhiên trong chương trình không phải chương nào, thậm chí không phải bài nào cũng có thể áp dụng phương pháp dạy như nhau.
Một số phương pháp dạy học Giải toán bằng cách lập phương trình, hệ phương  
trình theo định hướng phát triển năng lực học sinh  
PHẦN THỨ NHẤT: ĐẶT VẤN ĐỀ  
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI  
Giáo dục phổ thông nước ta đang thực hiện bước chuyển từ chương trình  
giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực người học, nghĩa từ chỗ  
quan tâm đến việc học sinh học được cái gì đễn chỗ quan tâm học sinh vận dụng  
được cái gì qua việc học.  
Luật Giáo dục số 2005, Điều 28 qui định: “Phương pháp giáo dục phổ  
thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người học; phù  
hợp đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả  
năng làm việc theo nhóm; rèn kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác  
động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”.  
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khoá XI về đổi mới căn bản, toàn diện  
giáo dục đào tạo “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy học theo  
hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo vận dụng kiến  
thức, kĩ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ  
máy móc. tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyễn khích tự học, tạo cơ sở để  
người học tự cập nhật đổi mới tri thức, kĩ năng, phát triển năng lực. Chuyển  
từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, …”.  
Toán học được coi là " môn thể thao của trí tuệ, giúp chúng ta nhiều  
trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận, phương  
pháp học tập, phương pháp giải quyết các vấn đề, giúp chúng ta rèn luyện trí  
thông minh và sáng tạo"(Phạm Văn Đồng).  
Bởi vậy, một trong những nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của việc giảng  
dạy toán học hiện nay ở trường phổ thông đó là “Hình thành và rèn luyện cho  
học sinh các năng lực cơ bản thiết yếu để học sinh có thể sống và làm việc bình  
thường trong xã hội như: năng lực tự học, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực  
sáng tạo, năng lực quản lý, năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác, năng lực tính  
toán”. Phải sự suy nghĩ chính xác thì mọi hoạt động mới mang lại hiệu quả  
như mong muốn được. Hoạt động học tập môn toán lại càng cần đến sự suy nghĩ  
chính xác tối đa. Như vậy rèn luyện năng lực cho học sinh trong quá trình dạy  
toán là một vấn đề tối thiểu cần thiết rất đáng để đầu tư công sức.  
Do đó, trong điều kiện tôn trọng nội dung sách giáo khoa và kế hoạch dạy  
học đã quy định hiện hành, đồng thời để đảm bảo tính vừa sức với đối tượng học  
sinh THCS, muốn cho học sinh học toán có hiệu quả thì người thầy giáo dạy  
toán phải khéo léo lựa chọn phương pháp dạy phù hợp mà phát triển được năng  
lực học sinh. Năng lực không chỉ là cái đích cần đạt mà còn là phương tiện giúp  
học sinh học tốt môn toán.  
Trong quá trình giảng dạy môn Toán cấp THCS gần 10 năm qua và cả  
trong quá trình tự học, tự rèn bản thân, tôi thường xuyên quan sát, tìm hiểu  
những khó khăn, vướng mắc của học sinh cũng như của bản thân mình trong  
việc nâng cao dạy học toán học. Dưới sự giúp đỡ của các đồng nghiệp sự nỗ  
lực không ngừng của bản thân tôi đã gặt hái được kết quả đáng mừng trong việc  
1/22  
Một số phương pháp dạy học Giải toán bằng cách lập phương trình, hệ phương  
trình theo định hướng phát triển năng lực học sinh  
rèn luyện khả năng năng lực học toán học cho đối tượng học sinh THCS thuộc  
các lớp mà tôi đã giảng dạy ở trường mình thông qua một số phương pháp Dạy  
học Giải toán bằng cách lập phương trình, hệ phương trình theo định hướng  
phát triển năng lực học sinh. Những kết quả thu được báo hiệu phương pháp  
thực hiện mang tính khả thi cao nên tôi mạnh dạn hoàn thành bản sáng kiến kinh  
nghiệm này.  
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU  
Tôi chọn đề tài " Một số phương pháp Dạy học Giải toán bằng cách  
lập phương trình, hệ phương trình theo định hướng phát triển năng lực học  
sinh " này nhằm góp thêm một hướng đi, một cách dạy hiệu quả đối với  
nhiệm vụ phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo vận dụng kiến thức, kĩ  
năng của người học thông qua loại toán Giải toán bằng cách lập phương  
trình, hệ phương trình THCS. Giải toán bằng cách lập phương trình, hệ  
phương trình THCS là dạng bài toán quan trọng xuyên suốt từ lớp 8 lên lớp  
9 và là một trong bốn bài toán trong đề thi vào lớp 10 THPT. Đồng thời với  
phương pháp dạy học này khi học sinh có được khả năng, năng lực tư duy tốt  
thì càng góp phần kích thích sự hứng thú và làm tăng lòng say mê môn Toán  
các em, giúp các em vận dụng các năng lực được vào cuộc sống  
III. ĐỐI TƯỢNG PHẠM VI NGHIÊN CỨU  
Đối tượng nghiên cứu: " Một số phương pháp Dạy học Giải toán bằng  
cách lập phương trình, hệ phương trình theo định hướng phát triển năng  
lực học sinh".  
Phạm vi nghiên cứu: Học sinh lớp 8, lớp 9 trường THCS  
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  
Đề tài này được hoàn thành bằng phương pháp nghiên cứu luận,  
phương pháp tổng kết kinh nghiệm, phương pháp thực nghiệm sư phạm trên  
đối tượng học sinh lớp 8 và lớp 9 trong khi dạy học loại toán Giải toán bằng  
cách lập phương trình, hệ phương trình.  
2/22  
Một số phương pháp dạy học Giải toán bằng cách lập phương trình, hệ phương  
trình theo định hướng phát triển năng lực học sinh  
PHẦN THỨ HAI: NỘI DUNG  
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU  
1. Cơ sở luận  
Như đã trình bày trên, bản chất lôgic của toán học là lôgic hình thức  
mối quan hệ giữa khả năng duy lôgic và hiệu quả học tập môn Toán là  
hai vấn đề mối quan hệ chạt chẽ với nhau. Để học tốt môn Toán người học  
phải một số năng lực nhất định, ngược lại một số năng lực được hình thành  
và phát triển tốt hơn trong học tập môn Toán. Vì thế, việc hình thành và phát  
triển năng lực cho học sinh là một quá trình lâu dài, đòi hỏi sự quan tâm ngay  
từ đầu và duy trì bền bỉ trong suốt cả quá trình dạy học của giáo viên. Mọi bài  
toán, mọi đối tượng toán học đều ẩn chứa trong đó yếu tố năng lực người học.  
vậy trong mọi giờ học toán dù chính khoá hay ngoại khoá, dù dạy kiến thức  
mới hay luyện tập, ôn tập, với đối tượng học sinh khá giỏi hay yếu kém đều  
thể thực hiện được vấn đề rèn luyện năng lực cho học sinh.  
Với nội dung Giải toán bằng cách lập phương trình hệ phương trình  
thì đây cơ hội thuận lợi để rèn luyện và phát triển năng lực cho học sinh. Có  
thể liên hệ thực tế qua các dạng toán chuyển động, năng suất, vòi nước… Giúp  
học sinh đưa thực tế vào toán học, đưa toán học vào thực tế.  
2. Cơ sở thực tiễn.  
Khi dạy học môn Toán cấp THCS, do đặc điểm lứa tuổi và yêu cầu của  
cấp học người ta có phần châm chước, nhân nhượng về tính lôgic. Cụ thể là :  
tả (không định nghĩa) một số khái niệm không phải là nguyên thuỷ, thừa  
nhận (không chứng minh) một số mệnh đề không phải là tiên đề, hoặc chấp nhận  
một số chứng minh chưa chặt chẽ. Tuy vậy, nhìn chung chương trình toán  
THCS vẫn mang tính lôgic, hệ thống: Tri thức trước chuẩn bị cho tri thức sau,  
kiến thức được sắp xếp như một chuỗi mắt xích liên kết với nhau chặt chẽ. Bởi  
thế học sinh muốn lĩnh hội được các kiến thức toán học thì phải sự chuẩn bị,  
có trình độ phát triển tư duy phù hợp với yêu cầu của chương trình. Cụ thể là  
phải nhận thức được mối liên hệ giữa các kiến thức, biết suy luận để tìm ra  
những tính chất mới từ những tính chất đã biết, vận dụng các kiến thức đó để  
giải các bài tập đa dạng. Như vậy, rõ ràng học sinh phải những năng lực nhất  
định, biết vận dụng kiến thức cũ để đến kiến thức mới. Bằng chứng cụ thể là  
trong chương trình toán ở trường THCS rất nhiều bài yêu cầu người thầy cần có  
những phương pháp dạy khác nhau để thể giúp học sinh hình thành và phát  
triển năng lực. Tuy nhiên trong chương trình không phải chương nào, thậm chí  
không phải bài nào cũng thể áp dụng phương pháp dạy như nhau.  
Nhận thức rõ vai trò to lớn, tầm quan trọng hàng đầu của phát triển năng  
lực đối với hiệu quả học tập môn toán của học sinh phổ thông nói chung, học  
sinh THCS nói riêng nên trong quá trình dạy học môn Toán đặc biệt loại toán  
Giải toán bằng cách lập phương trình, hệ phương trình tôi luôn để ý đến khả  
năng tư duy và năng lực của các em và so sánh các cách dạy khác nhau của giáo  
3/22  
Một số phương pháp dạy học Giải toán bằng cách lập phương trình, hệ phương  
trình theo định hướng phát triển năng lực học sinh  
viên tác động như thế nào đến khả năng ấy. Tôi đã phát hiện ra rằng khi học loại  
toán Giải toán bằng cách lập phương trình, hệ phương trình đòi hỏi các em  
phải năng lực nhất định đó cũng là môi trường thuận lợi để rèn luyện tốt  
các năng lực cho các em. Vì vậy, tôi chọn đề tài " Một số phương pháp Dạy  
học Giải toán bằng cách lập phương trình, hệ phương trình theo định hướng  
phát triển năng lực học sinh" để hình thành và phát triển năng lực cho học sinh.  
Tuy nhiên để điều kiện nghiên cứu sâu, tìm hiểu kỹ thì trong đề tài  
này tôi tập trung nghiên cứu thể nghiệm chủ yếu trong loại toán Giải toán  
bằng cách lập phương trình, hệ phương trình. Bởi vì khi học loại toán này  
thì năng lực của các em được bộc lộ nhất cũng ở dạng toán này rất thuận  
lợi cho việc kiểm tra kết quả thực nghiệm. Để đảm bảo yêu cầu sư phạm và  
tính phổ dụng rộng rãi của đề tài, các bài toán, các vấn đề được sử dụng trong  
đề tài mang tính vừa sức với đối tượng học sinh lớp 8, lớp 9 trường THCS.  
4/22  
Một số phương pháp dạy học Giải toán bằng cách lập phương trình, hệ phương  
trình theo định hướng phát triển năng lực học sinh  
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU  
Như chúng ta đã biết, ngay từ cấp học tiểu học, học sinh đã được làm  
quen với các bài toán có lời văn. Khi giải các bài toán này học sinh chỉ làm theo  
cách lập luận đơn giản, theo từng phép tính.  
Đối với học sinh lớp 8, lớp 9 trở lên các đề toán có lời văn không còn đơn  
giản nữa mà nó là căn cứ vào đó để lập ra phương trình. Kết quả, đáp số đúng  
không chỉ phụ thuộc vào kỹ năng giải phương trình mà còn phụ thuộc vào việc  
lập phương trình.  
Ở lớp 8, vấn đề giải toán bằng cách lập phương trình được trình bày khái  
quát, đưa thành một mục thuyết trong các nội dung về phương trình và bất  
phương trình. Các bài toán đưa ra ở lớp 8 đều phương trình lập được là  
phương trình bậc nhất một ẩn hay phương trình có ẩn ở mẫu (mà khi giải đưa  
được về phương trình bậc nhất một ẩn). Ở lớp 9, sau khi học về hệ phương trình  
bậc nhất hai ẩn về giải phương trình bậc hai một ẩn, mục giải toán bằng  
cách lập hệ phương trình và giải toán bằng cách lập phương trình. Nội dung các  
mục này là đưa ra một số bài toán cụ thể giải toán bằng cách lập phương trình  
hay hệ phương trình. Hệ phương trình lập được hệ phương trình bậc nhất hai  
ẩn, phương trình lập được phương trình bậc hai một ẩn.  
Việc dạy học Giải bài toán bằng cách lập phương trình, hệ phương  
trình đối với học sinh THCS là một việc làm mới mẻ. Đề bài cho không phải là  
những phương trình có sẵn mà là một đoạn văn tả mối quan hệ giữa các đại  
lượng, học sinh phải chuyển đổi được mối quan hệ giữa các đại lượng được mô  
tả bằng lời văn sang mối quan hệ toán học. Hơn nữa, nội dung của các bài toán  
này, hầu hết đều gắn với các hoạt động thực tế của con người, hội hoặc tự  
nhiên,…Do đó trong quá trình giải học sinh thường quên, không quan tâm đến  
yếu tố thực tiễn dẫn đến đáp số vô lí. VD: ẩn số là con người, đồ vật, phải  
nguyên dương nếu tìm ra đáp số âm hoặc không nguyên là vô lí.  
Bài toán có nhiều nội dung khác nhau như: toán chuyển động, công việc,  
năng suất, toán chung riêng, phần trăm, toán tìm số …. Khi làm dạng toán Giải  
toán bằng cách lập phương trình hay hệ phương trình học sinh gặp khó khăn  
trong bước gọi ẩn, đặc biệt nghệ thuật lập phương trình.  
Chính vì vậy, người thầy không chỉ truyền thụ cho học sinh những kiến  
thức như trong SGK mà còn dạy cho học sinh cách học, tư duy suy luận sáng  
tạo, cách giải bài tập. Người thầy khi hướng dẫn cho học sinh giải các bài toán  
dạng này phải dựa trên các quy tắc chung là: yêu cầu về giải một bài toán, quy  
tắc giải bài toán bằng cách lập phương trình, phân loại các dạng toán, làm sáng  
tỏ mối quan hệ giữa các đại lượng dẫn đến lập được phương trình dễ dàng. Đây  
bước đặc biệt quan trọng và khó khăn với học sinh.  
5/22  
Một số phương pháp dạy học Giải toán bằng cách lập phương trình, hệ phương  
trình theo định hướng phát triển năng lực học sinh  
CHƯƠNG III:  
MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC GIẢI TOÁN BẰNG  
CÁCH LẬP PT, HỆ PT THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN  
NĂNG LỰC HỌC SINH  
Để phát triển năng lực học sinh khi dạy Giải toán bằng cách lập  
phương trình, hệ phương trình tôi đã áp dụng một số phương pháp sau:  
1. Hướng dẫn học ở nhà: nhằm phát triển năng lực tự học, năng lực giải quyết  
vấn đề của học sinh thông qua việc làm bài tập trả lời một số câu hỏi đọc  
sách.  
2. Vận dụng dạy học giải quyết vấn đề: nhằm phát triển năng lực tư duy, khả  
năng nhận biết giải quyết vấn đề  
3. Xây dựng bài toán mới từ bài toán gốc: nhằm phát triển năng lực tư duy,  
sáng tạo, phát triển ngôn ngữ.  
4. Hoạt động nhóm: nhằm phát triển năng lực hợp tác, năng lực quản lý, năng  
lực sử dụng ngôn ngữ năng lực giao tiếp.  
5. Tăng cường sử dụng phương tiện dạy học và công nghệ thông tin hợp lý  
hỗ trợ dạy học: nhằm tăng cường tính trực quan và thí nghiệm, thực hành  
trong dạy học  
I. Phương pháp hướng dẫn học ở nhà:  
Rèn luyện cho học sinh thói quen và khả năng đọc sách, tự học vấn đề  
ngày càng có ý nghĩa to lớn. Đọc sách toán thường không nhẹ nhàng như đọc  
một cuốn truyện và không phải lúc nào cũng thú vị; đòi hỏi phải tập trung  
tư tưởng, làm việc kế hoạch, phương pháp, kiên nhẫn…  
Việc chuẩn bị bài mới từ ở nhà là một cách có hiệu quả để rèn khả năng  
đọc sách, khả năng tự học, cần tổ chức việc đọc sách từ lớp 6 đến lớp 9, với  
những yêu cầu cao dần.  
Đối với học sinh lớp 8 và lớp 9, những câu hỏi không dặt ra trước, mà  
đặt ra sau khi học sinh đã đọc xong.  
VD: Tiết 49 - Bài “Giải toán bằng cách lập phương trình” (Sách giáo khoa  
Toán 8 tập 2, chương III) .  
Với phương pháp dạy học truyền thống giảng giải đàm thoại thì tiết  
học được thực hiện như sau:  
Hoạt động của Giáo viên  
Hoạt động của Học sinh  
1: Biểu diễn một đại lượng bởi biểu thức chứa ẩn  
GV đặt vấn đề: ở các lớp dưới chúng HS: lắng nghe  
ta đã giải nhiều bài toán bằng phư  
ơng pháp số học, hôm nay chúng ta  
được học một cách giải khác, đó là  
giải to án bằng cách lập phương trình.  
6/22  
Một số phương pháp dạy học Giải toán bằng cách lập phương trình, hệ phương  
trình theo định hướng phát triển năng lực học sinh  
GV: giới thiệu mục 1 như SGK rồi HS: nghe và làm ?1  
yêu cầu HS làm ?1  
GV có thể gợi ý :  
- Biết thời gian và vận tốc, tính HS: trả lời  
quãng đường như thế nào?  
- Biết thời gian và quãng đường, HS: trả lời  
tính vận tốc như thế nào?  
GV: yêu cầu HS làm ?2  
tiến hành tương tự như ?1  
HS: làm ?1  
2: Ví dụ về giải bài toán bằng cách lập phương trình  
GV: yêu cầu HS tóm tắt đề bài  
HS: đọc đề bài  
Số gà + số chó = 36 con  
Số chân gà + số chân chó = 100 chân  
Tính số gà, số chó?  
GV: đề bài yêu cầu tìm số gà và số  
chó. Hãy gọi một trong hai đại lượng  
đó l à x, cho biết x cần điều kiện gì?  
- Tính số chân gà?  
HS: trả lời  
- Biểu thị số chó?  
- Tính số chân chó?  
- Căn cứ vào đâu lập phương  
trình bài toán?  
GV: qua ví dụ trên, để giải bài toán  
bằng cách lập phương trình, ta cần  
tiến hành những bước nào?  
……  
Phương pháp dạy học “truyền thụ một chiều” như trên, học sinh tiếp thu  
một cách thụ động, máy móc, không phát triển được các năng lực tự học, tư  
duy sáng tạo ở học sinh. Học sinh gặp khó khăn khi làm các bài tập khác,  
không xác định được các đại lượng trong bài và cách biểu diễn các đại lượng,  
đặc biết là tìm mối quan hệ để lập phương trình  
Để phát triển năng lực học sinh, khi dạy bài này tôi đã thực hiện nsau:  
Cuối tiết 48- chương trình Toán 8, hướng dẫn học sinh học ở nhà:  
- Ôn cách giải PT đưa về bậc nhất một ẩn  
- Đọc trước bài “Giải toán bằng cách lập phương trình, hệ phương  
trình” – SGK  
- Hoàn thành bài tập sau:  
Tổ 1 và tổ 2  
Tổ 3 và tổ 4  
Điền vào chỗ trống trong các câu sau: Nhà bạn Minh có nuôi 36 con vừa gà  
Câu 1: Mối quan hệ giữa quãng đường, và chó. Biết tổng số chân của gà và  
7/22  
Một số phương pháp dạy học Giải toán bằng cách lập phương trình, hệ phương  
trình theo định hướng phát triển năng lực học sinh  
vận tốc thời gian là  
chó là 100 chân. Hỏi nhà bạn Minh  
nuôi bao nhiêu con gà và bao nhiêu  
con chó?  
a) Quãng đường = ……..………..  
b) Thời gian = ………………….  
c) Vận tốc = ……………………  
Điền vào chỗ trống trong các câu sau:  
Câu 2: Một ô tô đi chạy với vận tốc x a) Gọi số con gà là x (con), ĐK của x  
(km/h). là …….  
a) Quãng đường đi được trong 5 giờ là: b) Số con chó là: ……….  
………..  
Số chân gà là: ……….  
Số chân chó là: ……..  
c) Tổng số chân là 100. Ta có:  
………+……….= 100  
b) Thời gian để ô tô đi hết quang  
đường 100km là: …………..  
Giải phương trình trên được x = ….  
(x có thỏa mãn ĐK hay không?)  
d) vậy số con gà là: ……  
Số con chó là: …..  
Sau khi đọc bài “Giải bài toán bằng cách lập phương trình”, để hoàn thành được  
bài tập trên học sinh phải nhớ lại bài toán chuyển động ở tiểu học; xác định  
được các đại lượng vận tốc, quãng đường, thời gian và mối liên hệ giữa chúng,  
cách tính các đại lượng đó.  
Đầu giờ tiết học Tiết 49, giáo viên yêu cầu học sinh lên trình bày bài làm  
nhà của mình. Từ bài tập 1 nêu câu hỏi: “Thế nào là biểu diễn đại lượng chưa  
biết thông qua ẩn?” “muốn biểu diễn được ta phải xác định được mối quan hệ  
giữa các đại lượng”.  
Xuất phát từ việc trình bày bài tập ở nhà số 2 của học sinh, giáo viên giới  
thiệu rằng đôi khi để trả lời được câu hỏi của bài toán chúng ta không thể tính  
toán trực tiếp, không đoán được phải thực hiện qua các bước trung gian  
như ở bài tập 2 thông qua mối quan hệ giữa các đại lượng trong bài. Việc trình  
bày bài tập như trên là cách Giải bài toán bằng cách lập phương trình. Giáo  
viên yêu cầu học sinh dựa vào bài tập trên nêu các bước Giải bài toán bằng  
cách lập phương trình.  
Nói chung, cuối mỗi tiết học cần hướng dẫn học sinh về nhà học theo sách  
như thế nào, giao các bài tập để phục vụ cho việc nắm bắt bài mới kiến thức mới  
của tiết học sau. Như vậy tiết học sẽ nhẹ nhàng, không căng thẳng đối với học  
sinh. Học sinh sẽ thấy được sự liên quan giữa kiến thức cũ với kiến thức mới, tự  
mình khám phá được kiến thức mới dưới sự hướng dẫn của người thầy thông  
qua các câu hỏi và bài tập. Sự tiếp thu không còn là áp đặt nữa.  
Đối với học sinh lớp 9, nhất đối tượng khá giỏi, nên hướng dẫn học  
sinh đọc sách tham khảo, giao các bài tập vừa sức phù hợp từng đối tượng học  
sinh.  
8/22  
Một số phương pháp dạy học Giải toán bằng cách lập phương trình, hệ phương  
trình theo định hướng phát triển năng lực học sinh  
Dạy học giải quyết vấn đề (dạy học nêu vấn đề, dạy học nhận biết và  
giải quyết vấn đề) là quan điểm dạy học nhằm phát triển năng lực tư duy, khả  
năng nhận biết giải quyết vấn đề. Học sinh được đặt trong một tình huống có  
vấn đề, đó là tình huống chứa đựng mâu thuẫn nhận thức, thông qua việc giải  
quyết vấn đề, giúp học sinh lĩnh hội tri thức, kỹ năng phương pháp nhận thức.  
Dạy học giải quyết vấn đề là con đường cơ bản để phát huy tính tích cực nhận  
thức của học sinh, có thể áp dụng trong nhiều hình thức dạy học với những mức  
độ tự lực khác nhau của học sinh.  
Mức độ thứ một: học sinh tự mình giải quyết một vấn đề đã được đặt ra  
đã được phát biểu rõ ràng  
Mức độ thứ hai: khác ở chỗ giáo viên chỉ đặt vấn đề, học sinh phải tự  
mình phát biểu được vấn đề rồi giải quyết vấn đề.  
Mức độ thứ ba: học sinh phải tự mình đặt vấn đề, phát biểu vấn đề giải  
quyết vấn đề  
Các tình huống vấn đề những tình huống khoa học chuyên môn,  
cũng thể những tình huống gắn với thực tiễn. Trong thực tiễn dạy học hiện  
nay, dạy học giải quyết vấn đề thường chú ý đến những vấn đề khoa học chuyên  
môn mà ít chú ý hơn đến các vấn đề gắn với thực tiễn. Tuy nhiên nếu chỉ chú  
trọng việc giải quyết các vấn đề nhận thức trong khoa học chuyên môn thì học  
sinh vẫn chưa được chuẩn bị tốt cho việc giải quyết các tình huống thực tiễn. Vì  
vậy bên cạnh dạy học giải quyết vấn đề, luận dạy học còn xây dựng quan  
điểm dạy học theo tình huống.  
VD khi dạy các bước giải toán bằng cách lập phương trình hay hệ phương  
trình: Việc phân chia quá trình giải bài toán bằng cách lập phương trình thành  
các bước và nêu khái quát ý nghĩa của mỗi bước đó, giáo viên có thể đưa ra sau  
khi trình bày một số dụ cụ thể. Tuy nhiên để học sinh thực hiện được các  
bước giải này thì cần đưa ra cho học sinh nhiều bài tập đa dạng, đặt học sinh vào  
vào tính huống khác nhau. Thông qua khai thác các bài tập đó từng bước xây  
dựng cho các em được các kỹ năng cần thiết để giải quyết các bước đã nêu.  
Giáo viên chốt các bước giải bài toán bằng cách lập phương trình:  
B1: Gọi ẩn (đơn vị, điều kiện của ẩn)  
B2: Biểu diến các đại lượng chưa biết qua ẩn đại lượng đã biết  
B3: Lập phương trình và giải phương trình  
B4: Trả lời.  
Ở bước 1, giáo viên lưu ý học sinh thông thường thì đề bài hỏi đại lượng gì thì  
gọi đó ẩn và tùy từng đại lượng mà có điều kiện khác nhau.  
Với bước này chúng ta xuất phát từ nội dung bài toán mà phát hiện các  
đối tượng tham gia trong bài toán, các đại lượng liên quan tới chúng trong đó đại  
lượng nào đã biết, đại lượng nào chưa biết cần quan tâm (là đại lượng cần tìm  
9/22  
Một số phương pháp dạy học Giải toán bằng cách lập phương trình, hệ phương  
trình theo định hướng phát triển năng lực học sinh  
hay đại lượng biết nó thì sẽ biết được đại lượng cần tìm). Một trong các đại  
lượng chưa biết sẽ được chọn làm ẩn số và có thêt có một số cách chọn ẩn số  
khác nhau với cùng một bài toán. Với các bài toán không phức tạp thì thường ẩn  
số trực tiếp đại lượng chưa biết cần tìm được nêu trong câu hỏi của bài toán.  
Điều kiện đặt cho ẩn số được là do khai thác ý nghĩa cụ thể của đại lượng  
được chọn ẩn số.  
dụ:  
+ Nếu x biểu thị số cây, số người, sản phẩm…. thì điều kiện x là  
nguyên dương.  
+ Nếu x biểu thị vận tốc, thời gian hay quãng đường thì điều kiện là:  
x > 0  
Ở bước 2: Trong khâu biểu thị các đại lượng chưa biết qua ẩn số cũng nên  
hướng dẫn học sinh cách tiến hành biểu thị các đại lượng qua ẩn số trên một  
bảng. Giáo viên lưu ý học sinh khi biểu diễn các đại lượng chưa biết cần kèm  
theo đơn vị. giáo viên cũng cần lưu ý học sinh là ngoài các mối liên hệ có riêng  
trong bài toán, còn có những mối liên hệ là quan hệ có tính quy luật trong thực  
tế hay trong các nội dung toán học, vật lí, hóa học ….  
Hai bước này giáo viên lưu ý tới năng lực sử dụng ngôn ngữ của các em.  
Bước 3: lập phương trình và giải phương trình không ghi đơn vị.  
Đây bước quan trọng để rèn năng lực tính toán cho học sinh.  
Bước 4: Nhận định kết quả, trả lời có kèm theo đơn vị. Từ những nghiệm  
phương trình đã tìm được, ta loại bớt những nghiệm không thỏa mãn các điều  
kiện đã đặt cho ẩn số. Với các nghiệm còn lại ta có được câu trả lời cho bài toán  
ban đầu.  
Để học sinh có ý thức bước này thực sự cần thiết cần đưa ra một số bài  
tập ở bước này thực sự nghiệm bị loại. Chẳng hạn “Tìm cạnh một mảnh  
ruộng hình vuông biết rằng nếu tăng mỗi cạnh thêm 10m thì diện tích tăng thêm  
20m2.”  
Gọi độ lớn cạnh hình vuông thửa ruộng là x (m) ĐK: x>0  
Ta sẽ phương trình: (x + 10)2 = x2 + 20  
Giải phương trình này được nghiệm x = -4 không thỏa mãn ĐK x > 0. Như vậy  
mặc phương trình lập được là có nghiệm nhưng câu trả lời của bài toán ban  
đầu là không có thửa ruộng nào thỏa mãn yêu cầu của đầu bài.  
Cũng để học sinh thêm thận trọng với bước này, giáo viên có thể đưa ra  
một số bài toán mà phải suy nghĩ rồi mới quyết định được khâu nhận định kết  
quả từ nghiệm phương trình nhận được. dụ bài toán sau: “Cha 40 tuổi, con 16  
tuổi. Hỏi sau bao nhiêu năm nữa tuổi cha gấp 3 lần tuổi con”. Gọi số năm để  
tuổi cha gấp 3 lần tuổi con là x, ta có phương trình: 40 + x = 3(16 + x)  
Phương trình này có nghiệm x = -4, nghiệm này không nên loại mà câu  
trả lời sẽ là “Cách đâu 4 năm tuổi cha gấp 3 lần tuổi con”. (câu trả lời này là phù  
hợp với tinh thần câu hỏi cảu bài toán tuy có phần không phù hợp với từng từ  
của nó).  
10/22  

Tải về để xem bản đầy đủ

doc 22 trang huongnguyen 02/10/2024 960
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số phương pháp dạy học Giải toán bằng cách lập phương trình, hệ phương trình theo định hướng phát triển năng lực học sinh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docskkn_mot_so_phuong_phap_day_hoc_giai_toan_bang_cach_lap_phuo.doc