SKKN Một vài kinh nghiệm xây dựng bài giảng Elearning có hiệu quả

Giai đoạn 2000 – 2005 được coi là làn sóng gia tăng thứ hai của e-learning. Các công nghệ tiên tiến bao gồm JAVA và các ứng dụng mạng IP, công nghệ truy cập mạng và băng thông Internet được nâng cao, các công nghệ thiết kế Web tiên tiến đã trở thành một cuộc cách mạng trong giáo dục đào tạo. Ngày nay, thông qua Web, giáo viên có thể kết hợp hướng dẫn trực tuyến (hình ảnh, âm thanh, các công cụ trình diễn) tới mọi người học, nâng cao hơn chất lượng dịch vụ đào tạo. Ngày qua ngày, công nghệ Web đã chứng tỏ nó có khả năng mang lại hiệu quả cao trong giáo dục đào tạo, cho phép đa dạng hóa các môi trường học tập. Tất cả những điều đó tạo ra một cuộc cách mạng trong đào tạo với giá thành rẻ, chất lượng và hiệu quả.
PHẦN 1: MỞ ĐẦU  
1. Lí do chọn đề tài  
Với sự bùng nổ CNTT hiện nay, CNTT có mặt và có vai trò quan trọng  
trong tất cả các lĩnh vực. thế, việc ứng dụng CNTT vào trong dạy học là phù  
hợp với sự phát triển chung của thế giới. Hình thành và sử dụng các thành tựu của  
khoa học kĩ thuật hiện đại vào quá trình dạy học sẽ giúp HS tiếp nhận những tri  
thức mới nhanh chóng, kể cả về số lượng chất lượng, giúp thực hiện mục đích  
dạy học với hiệu quả cao.  
Định hướng đổi mới PPDH đã được xác định trong các Nghị quyết Trung  
ương từ năm 1996, được thể chế hóa trong Luật Giáo dục (12-1998), đặc biệt đã  
được khẳng định lại trong điều 5, Luật Giáo dục (2005): “Phương pháp giáo dục  
phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi  
dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say học tập và  
ý chí vươn lên”. Các PPDH nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh coi  
việc dạy phương pháp tự học cốt lõi. Rèn luyện cho người học được phương  
pháp, thói quen tự học, vận dụng được những điều đã học vào những tình huống  
mới, biết tự phát hiện giải quyết vấn đề gặp phải trong cuộc sống sẽ tạo cho họ  
lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi người, góp phần hình thành người  
công dân có ích, năng động, sáng tạo của hội tương lai.  
Trong thời đại hiện nay, học sinh có nhiều điều kiện được tiếp cận với công  
nghệ thông tin, đặc biệt là Internet từ rất sớm. Điều này mở ra nhiều cơ hội cho các  
em nhưng cũng đặt ra cho gia đình và nhà trường những mối hiểm họa từ Internet  
thể gây ra cho các em. Việc gia đình và nhà trường hướng cho học sinh khai  
thác những nội dung thông tin hữu ích, có thể hỗ trợ, giúp học sinh học tập tốt hơn  
rất cần thiết.  
Cùng với sự phát triển vượt bậc của khoa học công nghệ sự bùng nổ thông  
tin, trẻ em được tiếp cận một lượng tri thức phong phú từ nhiều nguồn khác nhau,  
từ đó làm nảy sinh các em nhu cầu nhận thức khám phá thế giới xung quanh. Vì  
vậy việc dạy học không thể cung cấp cho học sinh tất cả những tri thức các em  
mong muốn chỉ thể vạch ra cho các em con đường, cách thức để khám phá,  
chiếm lĩnh những tri thức ấy. Đó chính là dạy cho các em phương pháp học tập,  
giúp các em phát triển năng lực sáng tạo, tính độc lập, tự chủ của bản than mà việc  
tự học đóng một vai trò quan trọng.  
Trên thực tế hiện nay có rất nhiều nguồn tài liệu tham khảo hỗ trợ việc học  
tự học cho học sinh. Bên cạnh khối lượng khổng lồ sách tham khảo thì các  
website học tập dành riêng cho học sinh tiểu học nói chung và môn toán tiểu học  
nói riêng lại đứng ở vị trí khá khiêm tốn. Lựa chọn nguồn tài liệu tham khảo, lựa  
chọn phương thức học tập để thể phát huy khả năng tự học, khuyến khích sự  
hứng thú trong học tập của học sinh là vấn đề cần nghiên cứu của các nhà giáo dục.  
vậy, một giáo viên tin học và mong muốn góp phần vào việc nâng cao chất  
lượng dạy học môn Tin học ở trong nhà trường nói riêng và các môn học khác nói  
1
chung, tôi đã chọn đề tài: “Một vài kinh nghiệm xây dựng bài giảng elearning có  
hiệu quả”.  
2. Lịch sử nghiên cứu  
* Thế giới:  
Máy tính điện tử (computer) có nguồn gốc ra đời từ rất sớm và có nhiều  
chủng loại. Ngay sau khi ra đời, máy tính điện tử đã nhanh chóng được ứng dụng  
vào nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống hội, đặc biệt sau khi xuất hiện các thế  
hệ máy tính cá nhân – PC (Personal Computer). Cho đến nay, máy tính điện tử là  
một phần không thể thiếu trong cuộc sống hiện đại, nó chi phối và có vai trò cực kí  
quan trọng trong mọi lĩnh vực.  
Những năm 1970 – 1978, computer bắt đầu được các nhà giáo dục nghiên  
cứu, đưa vào nhà trường để cải tiến giáo dục. Đầu thập niên 80, tại Anh, người ta  
đã thực hiện dự án MEP (Micro electonics Education Program – Chương trình giáo  
dục vi điện tử). Canada, Liên Xô (cũ), Cộng hòa Liên bang Đức, Australia cũng đã  
đưa computer vào trường học phục vụ việc dạy học… Ở các nước Đông Nam Á  
như Singapore, Malaysia, Thái Lan là những nước sớm đưa computer vào nhà  
trường. Riêng Malaysia ngày nay có cả hệ thống “trường học thông minh” (Smart  
School). Và cho đến bây giờ trên thế giới, rất nhiều nước đã được học tập thông  
qua hệ thống computer và Internet.  
Về việc học trên máy tính (e-learning), một mốc quan trọng người ta nhắc  
đến rất nhiều đó là giai đoạn 1994 – 1999. Khi công nghệ Web được phát minh ra,  
các nhà cung cấp dịch vụ đào tạo bắt đầu nghiên cứu cách thức cải tiến phương  
pháp giáo dục bằng công nghệ này. Người thầy thông thái đã dần lộ rõ thông qua  
các phương tiện: Email, CBT (Computer Based Traing) qua Internet với text và  
hình ảnh đơn giản, đào tạo bằng công nghệ Web với hình ảnh chuyển động tốc độ  
thấp đã được triển khai trên diện rộng.  
Giai đoạn 2000 – 2005 được coi là làn sóng gia tăng thứ hai của e-learning.  
Các công nghệ tiên tiến bao gồm JAVA và các ứng dụng mạng IP, công nghệ truy  
cập mạng băng thông Internet được nâng cao, các công nghệ thiết kế Web tiên  
tiến đã trở thành một cuộc cách mạng trong giáo dục đào tạo. Ngày nay, thông qua  
Web, giáo viên có thể kết hợp hướng dẫn trực tuyến (hình ảnh, âm thanh, các công  
cụ trình diễn) tới mọi người học, nâng cao hơn chất lượng dịch vụ đào tạo. Ngày  
qua ngày, công nghệ Web đã chứng tỏ nó có khả năng mang lại hiệu quả cao trong  
giáo dục đào tạo, cho phép đa dạng hóa các môi trường học tập. Tất cả những điều  
đó tạo ra một cuộc cách mạng trong đào tạo với giá thành rẻ, chất lượng hiệu  
quả.  
Tình hình phát triển ứng dụng việc học trực tuyến phụ thuộc vào sự phát  
triển của cơ sở hạ tầng, CNTT và mạng truyền thông, nền giáo dục chủ trương,  
chính sách của Nhà nước, sự quan tâm của hội. vậy, sự phát triển của E-  
learning trên thế giới là không đồng đều. E-learning phát triển mạnh nhất ở Bắc Mĩ,  
sau đó đến Châu Âu và Châu Á. Tại những nước phát triển, E-learning đã trở nên  
2
rất phổ biến với số lượng ngày càng tăng. Chỉ riêng ở Mĩ đã hơn 700 công ty E-  
learning. Canada là nước đầu tiên trên thế giới triển khai thành công mạng  
SchoolNet nối liền tất cả các trường học thư viện, tạo tiền đề cho rất nhiều nước  
khác triển khai có hiệu quả mạng EduNet/SchoolNet phục vụ giáo dục đào tạo.  
Hầu như các nước trong khu vực Đông Nam Á đều mạng giáo dục điện tử như  
Thái Lan, Indonesia, Malaysia…, thậm chí có cả mạng ASEAN SchoolNet.  
Trên thế giới, hiện nay việc học tập qua Internet đang nhiều ưu điểm hơn  
hẳn so với phương pháp học truyền thống. Cùng với sự phát triển của CNTT nói  
chung, các giải pháp học tập trực tuyến đang dần phổ biến và hoàn thiện.  
* Việt Nam:  
Ở Việt Nam, từ giữa thập niên 80 của thế kỷ XX, Viện Khoa học Giáo dục là  
cơ sở đầu tiên bắt đầu nghiên cứu thử nghiệm việc dạy tin học ở trường phổ thông.  
đến những năm 1990 – 1992, Bộ GD&ĐT đã chương trình cung cấp máy  
tính cho các Sở giáo dục, các trường phổ thông, chủ yếu để dạy môn tin học. Chỉ  
khoảng 3,4 năm trở lại đây, thuật ngữ e-learning bắt đầu được biết đến. Nghiên cứu  
việc học trên máy tính cũng như phát triển Internet đang trở thành mối quan tâm  
hàng đầu của Bộ GD&ĐT, nhằm đưa CNTT trở thành công cụ hữu ích phục vụ sự  
nghiệp đổi mới giáo dục.  
Các dự án hợp tác quốc tế vE-learning đã được triển khai, đánh dấu ssâm  
nhập của công nghệ học trực tuyến vào Việt Nam:  
- Dự án hợp tác E-learning Việt Nam - Nhật bản, được thực hiện bởi Trường  
Đại học Bách Khoa Hà Nội, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội Trường Keio  
University phía Nhật Bản.  
- Trung tâm E-learning Việt - Nhật tại khu công nghệ cao Hòa Lạc.  
- Việt Nam tham gia dự án mạng E-learning Châu Á (AEN) với sự hỗ trợ của  
Chính phủ Nhật Bản.  
- Dự án hợp tác của Trung tâm tin học - Bộ GD&ĐT với công ty HP  
(Hewlett-Packard) cho ra đời Mạng giáo dục (Edu.Net) “Câu lạc bộ công nghệ  
giáo dục và E-learning” đã đi vào hoạt động hiệu quả.  
- Dự án hợp tác thành lập Trung tâm E-learning Coca-cola.  
- Hội thảo “Chiến lược phát triển E-learning của NTT” do Tổng công ty bưu  
chính viễn thông Việt Nam (VNPT) và Công ty Điện tín và điện thoại Nhật bản  
(NTT) phối hợp tổ chức.  
Bên cạnh các dự án hợp tác quốc tế, trong nước cũng rất nhiều các cuộc  
hội thảo về E-learning, thu hút được sự quan tâm của các trường Đại học lớn, các  
viện nghiên cứu và các công ty hoạt động trong lĩnh vực CNTT. Tính đến nay, Việt  
Nam đã có hai cuộc hội thảo về chủ đề E-learning. Đó hội thảo “Workshop về E-  
learning” “Nghiên cứu triển khai E-learning”. Trang web chưa thông tin đầy  
đủ, phong phú nhất về E-learning là trang “Câu lạc bộ công nghệ giáo dục và E-  
learning” của Bộ GD&ĐT (http://el.edu.net.vn) cung cấp các thông tin, kiến thức  
cơ bản cần thiết về E-learning. Trang này cũng thực hiện các kiên kết với nhiều địa  
3
chỉ đào tạo E-learning trên thế giới để mọi người thể tham khảo đăng kí khóa  
học tại đó.  
Nói chung, sự phát triển học tập trực tuyến tại Việt Nam mới chỉ trong giai  
đoạn khởi đầu, các ứng dụng triển khai còn rất ít, hầu hết mới chỉ dừng lại ở mức  
độ thử nghiệm. Các vấn đề lớn gặp phải ở đây là các chuẩn về e-learning chưa có,  
cơ sở hạ tầng CNTT còn yếu, các quy tắc/luật định cho việc phát triển hình thức  
học tập này còn chưa phù hợp, đặc biệt việc đầu tư hỗ trợ kinh phí chưa được  
sự quan tâm của Nhà nước và Chính phủ, chính vì vậy hiệu quả đạt được chưa cao.  
3. Mục đích nghiên cứu  
- Xây dựng bài giảng elearning hỗ trợ việc tự học cho học sinh.  
- Đề xuất cách khắc phục những khó khăn vướng mắc khi xây dựng bài  
giảng elearning bằng cách sử dụng các công cụ hỗ trợ sẵn có.  
4. Phạm vi nghiên cứu  
Đề tài giới hạn ở việc nghiên cứu:  
- Đưa chương trình, chuẩn kiến thức các các môn học vào bài giảng  
elearning bằng các phần mềm sẵn có.  
- Khảo sát thực trạng của giáo viên khi xây dựng bài giảng elearning.  
- Tổ chức thực nghiệm xây dựng một số bài giảng elearning cho giáo viên  
trong trường Tiểu học Phúc Đồng.  
5. Đối tượng nghiên cứu  
- Quá trình thiết kế bài giảng elearning có sử dụng các công cụ hỗ trợ sẵn có,  
bài giảng E-Learning.  
6. Phương pháp nghiên cứu  
1. Lý thuyết  
- Tham khảo tài liệu, sách giáo khoa, sách giáo viên. Website, CD-ROM…  
có liên quan trực tiếp đến đề tài.  
2. Thực tiễn  
- Dự giờ, tham khảo ý kiến đóng góp của giáo viên giảng dạy vcách thức tổ  
chức dạy học, quá trình lên lớp bằng giáo án điện tử sự hỗ trợ của các đoạn phim  
minh hoạ. Thử nghiệm bài giảng trên một số Website từ đó thiết kế nội dung bài  
giảng E-Learning theo chuẩn quốc tế SCORM.  
4
PHẦN 2: NỘI DUNG  
CHƯƠNG 1  
CƠ SỞ LUẬN THỰC TIỄN  
1.1. Cơ sở luận  
1.1.1. Những khái niệm cơ bản và các vấn đề liên quan đến tự học  
1.1.1.1. Một số quan niệm về tự học  
Về vấn đề tự học nhiều quan điểm:  
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Tự học một cách học tự động”, tức là: học  
tập một cách hoàn toàn tự giác, tự chủ, không đợi ai nhắc nhở, không chờ ai giao  
nhiệm vtự mình chủ động vạch kế hoạch cho mình rồi tự mình triển khai thực  
hiện kế hoạch đó một cách tự giác, tự mình làm chủ thời gian để học tự mình  
kiểm tra, đánh giá việc học của mình. Tự học tự mình tìm kiếm tri thức bằng  
hành động của chính mình, tự phát huy, sử dụng kiến thức, kĩ năng, thái độ năng  
lực của bản thân để lĩnh hội nền văn hóa lịch sử hội loài người.  
Nói một cách chi tiết, “Tự học tự mình động não suy nghĩ, sử dụng các  
năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp…) và có khi cả cơ bắp (khi  
phải sử dụng công cụ), cùng các phẩm chất của mình rồi cả động cơ tình cảm,  
nhân sinh quan, thế giới quan (như trung thực, khách quan, ý muốn, biết biến khó  
khăn thành thuận lợi…) để chiếm lĩnh lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến  
lĩnh vực hiểu biết đó thành sở hữu của mình.  
Như vậy, quá trình tự học “một sự biến đổi bản thân, trở nên có thêm giá  
trị, bằng nỗ lực của chính mình để chiếm lĩnh những giá trị mới lấy từ bên ngoài”,  
“một hành trình nội tại, được cắm mốc bởi kiến thức, phương pháp duy và sự  
thực hiện tphê bình để tự hiểu bản thân mình”.  
Hiểu như trên thì cốt lõi của việc học tự học dưới bất cứ hình thức nào  
trong hay ngoài trường lớp, không có tự học thì không có sự biến đổi bản thân.  
Sự chiếm lĩnh những thái độ năng lực, những kĩ năng kiến thức bằng hành  
động của chính bản thân chứ không thể nhờ hành động của người khác, mọi yếu tố  
khác chỉ có tác dụng xúc tác, thúc đẩy hoặc kìm hãm. Cùng một nội dung học tập,  
cùng một thầy giảng dạy nhưng mỗi học sinh sẽ lĩnh hội nhanh hay chậm, nông hay  
sâu là tùy thuộc vào năng lực tự học của bản thân mỗi người đó.  
thể nói, khả năng tự học của chính bản thân là chìa khóa cho cánh cửa  
thành công trong mọi hành động của con người. Một người muốn thành công trong  
cuộc sống thì điều quan trọng phải tự nhận biết được những giá trị của bản thân  
(năng lực và thái độ, kĩ năng, kiến thức), xác định được những giá trị cần thiết cho  
hoạt động của mình, biết cách chiếm lĩnh những giá trị đó, tức biết cách tự học.  
Trong cuộc sống, sự hiểu biết của con người không phải thứ bất biến. Hoạt  
động trong cuộc sống của con người luôn đòi hỏi con người phải liên tục mở rộng  
sự hiểu biết. Không trường học nào có thể cung cấp cho học sinh đủ tri thức để có  
thể sống hoạt động đạt hiệu quả, không phải lúc nào cũng chỉ có tái hiện tri thức  
sẵn có, sử dụng những kĩ năng sẵn có mà còn cần phải thường xuyên hình thành  
5
những tri thức mới, kĩ năng mới, phẩm chất mới. Điều này đòi hỏi người thực hiện  
hành động phải chiếm lĩnh những nội dung mới đó, tức phải tiến hành hoạt động  
tự học.  
Như vậy, quá trình sống hoạt động của con người là quá trình con người  
dần dần bước lên những bậc thang mới của sự hiểu biết. Bước đi này dễ hay khó,  
cao hay thấp phụ thuộc vào khả năng tự học của mỗi người. Khả năng này cần  
được rèn luyện ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường, đặc biệt đối với bậc tiểu  
học.  
1.1.1.2. Một số hình thức tự học  
Trong quá trình học ở tiểu học học sinh có thể tiến hành hoạt động tự học  
dưới nhiều hình thức khác nhau, trong những điều kiện khác nhau:  
Hình thức tự học thứ nhất hoạt động tự học của học sinh diễn ra nhằm đáp  
ứng như cầu hiểu biết riêng, bổ sung và mở rộng tri thức ngoài chương trình đào  
tạo ở trường cũng không cần sự điều khiển của giáo viên. Người học tự đọc  
tài liệu, tự suy nghĩ, tự rút kinh nghiệm. Đây tự học ở mức cao. Người học tự ý  
thức, xác định được nhu cầu tri thức mới tự mình tìm cách để đạt được tri thức  
đó.  
Hình thức tự học thứ hai hoạt động tự học của học sinh cũng thể diễn ra  
khi không có sự điều khiển trực tiếp của giáo viên. Ở đây học sinh phải tự sắp xếp  
quỹ thời gian và điều kiện vật chất để tự ôn tập, tự củng cố, tự đào sâu những tri  
thức hoặc tự hình thành những kĩ năng, kĩ xảo ở một năng lực nào đó theo yêu cầu  
của giáo viên hoặc quy định trong chương trình đào tạo của nhà trường. Giáo viên  
đóng vai trò hướng dẫn hoặc chỉ giao nhiệm vụ, học sinh tự tìm cách giải quyết vấn  
đề mà không có giáo viên điều khiển trực tiếp.  
Hình thức tự học thứ ba hoạt động tự học của học sinh diễn ra dưới sự  
điều khiển trực tiếp của giáo viên. Thầy là tác nhân hướng dẫn, tổ chức, đạo diễn để  
trò phát huy những phẩm chất năng lực của mình như khả năng chú ý, óc phân  
tích, năng lực khái quát hóa… tự tìm ra tri thức, kĩ năng, kĩ xảo thầy đã định  
hướng cho hoạt động này.  
Trong ba hình thức trên thì hình thức tự học thứ nhất ở mức độ cao nhất,  
hình thức tự học thứ ba ở mức độ thấp nhất. Đối với học sinh tiểu học, hình thức tự  
học thứ hai và ba được diễn ra nhiều hơn cả. Do đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi, học  
sinh tự học chủ yếu phải sự hướng dẫn, chỉ đạo trực tiếp từ giáo viên. Giáo viên  
đưa ra hệ thống các câu hỏi để hướng dẫn học sinh tìm kiếm tri thức. Hình thức tự  
học thứ hai chính là việc học sinh tiến hành hoạt động tự học không có giáo viên  
(như tự học ở nhà, thư viện,…). Ở hoạt động này, từ những yêu cầu, nhiệm vụ mà  
giáo viên đã đưa ra, học sinh bằng cách của mình như tự đọc tài liệu, sách tham  
khảo, lên mạng tìm kiếm thông tin,… cùng với vốn tri thức, kinh nghiệm sẵn có  
của mình để tìm ra cách giải quyết vấn đề. Với hoạt động này, giáo viên chỉ đóng  
vai trò định hướng, còn học sinh là người tự tìm ra con đường để đến với tri thức.  
1.1.1.3. Chu trình tự học của học sinh  
Chu trình tự học của học sinh là chu trình gồm 3 thời:  
6
* Thời 1: Tự tìm tòi  
Ở thời đầu tiên, người học tự quan sát, mô tả, giải thích, phát hiện vấn đề,  
định hướng giải quyết vấn đề, giải quyết vấn đề, tự tìm ra kiến thức mới (kiến thức  
này chỉ mới đối với người học) tạo ra sản phẩm ban đầu hay sản phẩm thô đối  
với cá nhân người học.  
* Thời 2: Tự thể hiện  
Người học tự thể hiện mình bằng văn bản, bằng lời nói, tự trình bày, bảo vệ  
kiến thức hay sản phẩm cá nhân ban đầu của mình, tự thể hiện qua sự hợp tác, trao  
đổi, đối ngoại, giao tiếp với các bạn và giáo viên để tạo ra sản phẩm có tính chất xã  
hội của cộng đồng lớp học.  
* Thời 3: Tự kiểm tra, điều chỉnh  
Sau khi tự thể hiện mình qua sự hợp tác trao đổi với các bạn và giáo viên,  
sau khi giáo viên kết luận, người học tự kiểm tra, tự đánh giá sản phẩm ban đầu của  
mình, tự sửa sai, tự điều chỉnh, thực chất đây cũng chính là con đường “nhận thức,  
phát hiện vấn đề, định hướng giải quyết giải quyết vấn đề” của nghiên cứu khoa  
học. Theo con đường xoắn ốc Oristic, ở tầm vóc và trình độ học sinh tiểu học, việc  
dẫn dắt người học đến tri thức khoa học, đến chân lý mới (chỉ mới đối với người  
học mà thôi) chỉ thể diễn ra dưới tác động hợp của chu trình dạy của thầy.  
Đối với học sinh tiểu học, chu trình tự học của học sinh chủ yếu mới đạt đến  
thời 1 và thời 2. Học sinh tự tìm ra được tri thức mới thể hiện sự hiểu biết của  
mình bằng văn bản, lời nói… Hầu hết chu trình tự học của các em dừng lại ở đây.  
Các em chưa có ý thức, nhu cầu quay lại tự kiểm tra, đánh giá sản phẩm ban đầu  
của mình. Rất ít học sinh từ những sản phẩm, tri thức mà mình thu được tiếp tục tư  
duy, sáng tạo để phát triển lên thành kiến thức mới. Đây đòi hỏi cao so với học  
sinh tiểu học, nhưng tiền đề khoa học tư duy sáng tạo, một phẩm chất cần thiết  
trong nghiên cứu khoa học.  
1.1.1.4. Vai trò, ý nghĩa của việc tự học  
Tự học một trong những yếu tố quyết định chất lượng giáo dục, chất lượng  
giáo dục của mọi nhà trường chất lượng giáo dục học tập và rèn luyện của học  
sinh. Để tạo ra chất lượng này cần sự tham gia của nhiều yếu tố, trong đó quan  
trọng nhất vấn đề tự học, tự giáo dục của học sinh.  
Tự học giúp học sinh tự lực nắm vững tri thức, kĩ năng, kĩ xảo nghề  
nghiệp trong tương lai. Trong quá trình tự học, mỗi học sinh tự vận động, từng  
bước biến vốn kinh nghiệm lịch sử loài người thành vốn tri thức riêng của bản thân  
mình. Hoạt động tự học đã tạo điều kiện cho học sinh thông hiểu tri thức bởi vì con  
người chỉ thực sự nắm được cái mà mình giành được bằng hoạt động tự lực của bản  
thân. Bằng con đường này học sinh không những kiến thức mà còn có được  
niềm hứng thú, say mê, tìm tòi, khám phá.  
Bên cạnh đó, tự học tạo nền móng cho sự xuất hiện của các nhà nghiên cứu  
khoa học. Tự học tự nghiên cứu khoa học đều hướng vào mục đích chung là  
phát hiện tri thức mới cho dù tri thức mới do nhà khoa học học sinh tìm ra khác  
nhau về ý nghĩa (mới đối với cả nhân loại mới với mỗi cá nhân). Phương pháp  
7
tự học rất gần gũi với phương pháp nghiên cứu khoa học. Do đó quá trình học sinh  
tự học cũng chính là quá trình các em tiếp xúc, làm quen với hoạt động nghiên cứu  
khoa học.  
Tự học không những giúp học sinh không ngừng nâng cao chất lượng và  
hiệu quả học tập khi còn ngồi trên ghế nhà trường mà còn giúp cho họ được  
hứng thú, thói quen và phương pháp tự học thường xuyên sau này. Đây cũng là  
cách hữu hiệu để chuẩn bị cho lớp người kế tục thích ứng với hội học tập, một  
hội mà trong đó mỗi người phải năng lực học tập liên tục, suốt đời.  
Mặt khác, hoạt động tự học không chỉ giúp học sinh thông hiểu tri thức mà  
chính trong quá trình giải quyết một cách độc lập các nhiệm vụ học tập với sự nâng  
cao dần mức độ phức tạp khó khăn học sinh còn được rèn luyện để phát triển năng  
lực nhận thức, hình thành các kĩ năng, kĩ xảo thực hành, các phẩm chất trí tuệ và  
nhân cách. Tự học giúp học sinh hình thành niềm tin khoa học, rèn luyện ý chí  
phấn đầu, đức tính kiên trì, óc phê phán, lòng say mê khoa học…  
Việc tự học của học sinh là một hình thức học, ở đó phát huy cao nhất vai trò  
tích cực, độc lập, tự giác nhận thức của học sinh nhưng không tách rời vai trò điều  
khiển của giáo viên. Muốn một kết quả học tập cao đòi hỏi người học phải có  
một quá trình làm quen, rèn luyện năng lực tự học mà giáo viên tác động, giáo dục,  
tổ chức, giúp đỡ trong mối quan hệ chặt chẽ, khoa học với hoạt động dạy của giáo  
viên.  
1.1.2. Vai trò của CNTT với dạy học  
CNTT có vai trò hết sức quan trọng đối với giáo dục. Trong thời đại ngày  
nay, với sự bùng nổ thông tin khoa học kĩ thuật trên toàn thế giới, kiến thức hình  
thành rất nhanh, nhu cầu tiếp nhận thông tin tăng nhanh cả về chất lượng số  
lượng. Để đáp ứng điều đó, giáo dục cần phải đổi mới về mục tiêu và phương  
pháp đào tạo, những cải cách cả về nội dung, phương pháp và hình thức đào tạo  
theo hướng tích cực hóa quá trình đào tạo. Bởi thế, công nghệ giáo dục đã xuất  
hiện và có vị trí nhất định trong lý luận dạy học hiện đại, trong đó khẳng định vai  
trò quan trọng của việc ứng dụng các thành tựu của khoa học kĩ thuật vào quá trình  
dạy học nhằm thực hiện mục đích dạy học với hiệu quả cao.  
1.1.2.1. Vai trò của CNTT với mục đích dạy học  
CNTT mà cụ thể ở đây là máy vi tính đóng vai trò quan trọng trong dạy học.  
Máy vi tính hiện nay cùng với các phần mềm mới sự hỗ trợ của Internet có thể  
được sử dụng trong việc truyền thụ kiến thức cho học sinh. Học sinh tiếp thu tri  
thức không chỉ với con đường thông qua bài giảng của thầy hoặc tham khảo sách  
báo như trước đây mà còn có thể bằng hoạt động trong môi trường CNTT.  
Với nhiều tính năng nổi trội, hiện nay, CNTT ngày càng thâm nhập sâu vào  
quá trình dạy học. Sử dụng CNTT với các phần mềm học sinh có thể độc lập suy  
nghĩ lĩnh hội những nội dung tri thức đã được cài sẵn trong mã chương trình.  
Trong giai đoạn truyền thụ kiến thức mới cho học sinh, các phương tiện CNTT có  
khả năng giúp cho người đọc nhanh chóng hiểu bài và ghi nhớ lâu. Nhất với học  
8
sinh tiểu học, với sự trợ giúp của nhiều phần mềm dạy học sinh động hiện nay, học  
sinh không chỉ tiếp thu tri thức tốt hơn mà còn rất hứng thú với bài học.  
Trong dạy học, CNTT đóng vai trò rèn luyện kĩ năng thực hành, củng cố kiến  
thức; rèn luyện và phát triển tư duy; đóng vai trò hình thành phẩm chất, tác phong  
cho học sinh.  
Đối với việc rèn luyện kĩ năng thực hành, củng cố kiến thức đã học: CNTT  
thể được dùng làm phương tiện thực hành cho học sinh. Nhiều chương trình về  
luyện tập thực hành trên máy vi tính, đặc biệt là các chương trình trắc nghiệm, đem  
đến cho một mức độ luyện tập không hạn chế về cả thời gian lẫn nội dung. Tùy  
theo mức độ giải quyết của từng học sinh, học sinh có thể tự ôn tập tự rèn luyện  
kĩ năng vận dụng kiến thức đã học của mình. Một đặc tính quan trọng và là đặc  
trưng của nhiều chương trình phần mềm là tính năng “Hội thoại”. Qua hội thoại,  
máy “thông báo” cho học sinh kết quả trả lời, nếu trả lời sau máy sẽ nêu ra lí do  
sai, và gợi ý để cho học sinh sửa sai. Khi học sinh trả lời đúng máy sẽ đưa ra câu  
hỏi tiếp theo mức độ từ dễ đến khó. Nội dung kiến thức để cho học sinh ôn luyện  
trong các chương trình này là rất phong phú, đa dạng về cả hai phía câu hỏi và câu  
trả lời, do đó đòi hỏi học sinh phải nắm vững rất nhiều kiến thức, kĩ năng mới  
giải quyết được. Như vậy, luyện tập trong môi trường hỗ trợ CNTT cho thấy  
hiệu quả cao hơn nhiều so với cách học thông thường.  
Đối với việc rèn luyện và phát triển tư duy: Nhiều nghiên cứu nước ngoài đã  
đi đến kết luận: dạy học với hỗ trợ của máy vi tính thì các khả năng suy luận tư  
duy của học sinh được phát triển rất tốt. Đó năng lực quan sát, mô tả, phân tích,  
so sánh, mò mẫm, dự đoán, khái quát hóa, tổng quát hóa, lập luận, suy diễn, chứng  
minh.  
Máy vi tính với các phần mềm dựng hình cơ hoạt sức hấp dẫn thu hút học  
sinh ham thích tìm tòi nghiên cứu. Nhờ khả năng chuyển đổi hình nhanh chóng, đo  
đạc tính toán chính xác, học sinh có thể phát triển tư duy phê phán trong suy luận.  
Học sinh dễ dàng kiểm nghiệm lại điều được dự đoán, rồi khái quát nêu ra giả  
thuyết. Nhờ phương tiện kĩ thuật hiện đại, quá trình tìm hướng giải quyết được rút  
ngắn lại. Học tập trong môi trường máy tính, học sinh có điều kiện tốt để phát triển  
duy logic, đặc biệt duy toán học.  
Vai trò của CNTT trong việc hình thành phẩm chất, tác phong cho học sinh:  
Ứng dụng những phương tiện CNTT, nhất là máy vi tính trong quá trình dạy học  
toán sẽ giúp hình thành và rèn luyện phong cách làm việc khoa học cho học sinh.  
Đó đức tính độc lập, chủ động sáng tạo tự học, tự rèn luyện, say sưa tìm tòi  
nghiên cứu, thái độ nghiêm túc và tính kỉ luật cao. Trong quá trình hội thoại với  
máy tính, máy không phê phán gay gắt trực tiếp khi học sinh trả lời sai, nhưng nó  
không bao giờ khoan nhượng đối với những sai sót đó. Chỉ khi nào học sinh trả lời  
đúng câu hỏi được đsặt ra để giải quyết xong nhiệm vụ được giao thì máy mới cho  
phép đi nghiên cứu vấn đề mới. Để cuộc hội thoại với máy vi tính có kết quả cao  
buộc học sinh phải kiên trì, nhẫn nại. Sử dụng CNTT trong giai đoạn kiểm tra đánh  
9
giá một cách khách quan giúp học sinh rèn luyện và hình thành đức tính trung thực,  
công bằng và chính xác.  
Ngoài ra, làm việc trong môi trường CNTT với các tính năng hiện đại, độc  
đáo không chỉ tạo được hứng thú cho học sinh mà đã đem lại cho học sinh các  
phương pháp giải quyết rất nhiều nhiệm vụ hóc búa một cách khoa học. Học sinh  
không còn phải bị nhồi nhét bằng các mẹo, “tiểu xảo” đầy hiểm như trước đây,  
tránh rơi vào tình trạng học theo kiểu đánh đố.  
Ngày nay, khi mà CNTT đã xâm nhập vào hầu hết các lĩnh vực của đời sống  
con người thì việc đưa phương tiện máy tính vào trợ giúp giảng dạy (học sinh được  
thao tác trên máy tính trong quá trình học tập của mình) rõ rang đã góp vào phần  
xây dựng những con người trong tương lại kĩ năng sử dụng thành thạo máy vi  
tính, có đủ điều kiện thích nghi với hội công nghiệp cao, có tác phong lao động  
trong thời đại mới.  
1.1.2.2. Vai trò của CNTT với quá trình dạy học  
Theo sự khảo sát của nhiều nhà nghiên cứu nước ngoài thì dạy học với sự hỗ  
trợ của CNTT có khả năng nâng cao chất lượng giảng dạy học tập. CNTT có thể  
được sử dụng trong nhiều khâu của quá trình dạy học. Vai trò hỗ trợ của CNTT  
trong quá trình đó được thể hiện qua một số chức năng quan trọng sau đây:  
- Chức năng cung cấp thông tin: Làm việc với các phần mềm máy tính về  
toán học sinh có thể thu thập các dữ liệu cần thiết cho mục đích học tập của mình.  
Máy tính quản lý và xử nhiều dạng thông tin khác nhau như văn bản, số đo, biểu  
đồ, đồ thị, hình vẽ, dạng quá trình chuyển động,… Với khả năng này máy vi tính  
giúp học sinh có điều kiện tốt để nghiên cứu các đối tượng toán học từ đó tìm ra  
được kiến thức mới.  
Sử dụng các phần mềm của máy tính, học sinh có thể truy cập vào các file  
mẫu để tìm kiếm các kiến thức liên quan đến nội dung học tập như các thí nghiệm,  
các mô hình…  
Đối với giáo viên, nó phục vụ cho việc soán giáo án hết sức thuận lợi khi  
muốn lồng ghép các ý tưởng, tình huống sư phạm cùng với việc tìm kiếm thông tin  
có liên quan một cách nhanh nhất và chính xác nhất.  
- Chức năng hỗ trợ hoạt động khám phá và giải quyết vấn đề: Chức năng bổ  
trợ khám phá được xem là một trong những chức năng cần thiết nhất trong việc dạy  
học qua sự trợ giúp của CNTT. Các phương tiện trực quan trước đây thường  
được sử dụng nhằm giúp học sinh tìm tòi, phát hiện các tính chất mới, nhưng hiệu  
quả kém xa so với việc sự trợ giúp của CNTT.  
- Chức năng trực quan hóa, minh họa, kiểm nghiệm: Máy vi tính có thể được  
sử dụng trong quá trình dạy học nhằm tạo ra mô hình trực quan để minh họa cho  
các nội dung trong bài giảng. Trực quan hóa là chức năng biểu diễn các thông tin  
có tính cấu trúc hoặc các vấn đề học dưới dạng thể nhìn thấy được trong đó có  
sự tham gia của các mô hình.  
Sự kết hợp giữa lập luận suy diễn và dùng máy tính để minh họa kiểm  
nghiệm lại các tính chất có tác dụng thúc đẩy hỗ trợ cho nhau nhằm đạt được mục  
10  

Tải về để xem bản đầy đủ

doc 35 trang huongnguyen 11/09/2024 690
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một vài kinh nghiệm xây dựng bài giảng Elearning có hiệu quả", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docskkn_mot_vai_kinh_nghiem_xay_dung_bai_giang_elearning_co_hie.doc