SKKN Rèn kĩ năng đọc diễn cảm các bài văn xuôi cho học sinh Lớp 4
Việc đọc mẫu của giáo viên có ảnh hưởng lớn đối với học sinh, sẽ giúp học sinh hiểu rõ hơn những khía cạnh tinh tế, những thái độ, tình cảm của tác giả đối với các nhân vật trong tác phẩm. Đọc mẫu là biện pháp không thể thiếu để hình thành cách đọc diễn cảm cho học sinh. Theo tôi, giọng đọc của giáo viên là hết sức quan trọng. Giáo viên đọc diễn cảm toàn bài giúp học sinh định hướng được cách đọc. Không những thế còn lôi cuốn, hấp dẫn, gây hứng thú học tập cho học sinh. Tôi thấy, khi giáo viên đọc mẫu, các em rất chăm chú lắng nghe, coi giọng đọc của cô lúc dó như là “thần tượng” để các em bắt chước theo, học tập theo. Muốn đọc mẫu được hay, giọng đọc truyền cảm, giáo viên phải chuẩn bị bài chu đáo trước khi lên lớp. Giáo viên phải tự luyện đọc và sửa giọng sao cho phù hợp với bài đọc.
MỤC LỤC
A. ĐẶT VẤN ĐỀ............................................................................................................1
I. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ ..........................................................................1
1. Cơ sở lí luận............................................................................................................1
2. Cơ sở thực tiễn........................................................................................................1
1. Đối tượng nghiên cứu .............................................................................................2
2. Phạm vi nghiên cứu.................................................................................................2
3. Thời gian thực hiện đề tài .......................................................................................2
B. QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN ĐỀ TÀI..........................................................................3
I. KHẢO SÁT THỰC TẾ ...............................................................................................3
1. Đọc mẫu..................................................................................................................4
2. Rèn cho học sinh kĩ năng đọc đúng ........................................................................4
2.1.1 Đọc đúng các âm dễ lẫn.................................................................................4
2.1.2 Đọc đúng các vần..........................................................................................5
2.1.3 Đọc đúng dấu thanh......................................................................................5
2.2 Rèn tốc độ đọc......................................................................................................6
2.3 Rèn kĩ năng đọc diễn cảm.....................................................................................7
2.3.4 Phân tích cách ngắt nghỉ hơi.........................................................................9
2.3.5 Hướng dẫn học sinh đọc hiểu ......................................................................10
2.4 Sử dụng linh hoạt các hình thức học tập............................................................12
2.5 Tổ chức trò chơi học tập ....................................................................................12
IV. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ .........................................................................14
1. So sánh đối chứng kết quả ban đầu.......................................................................14
2. Kết luận khoa học .................................................................................................14
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lí luận
Tiểu học là cấp học nền tảng đặt cơ sở ban đầu cho việc hình thành và
phát triển toàn diện nhân cách của con người, đặt nền tảng vững chắc cho giáo
dục phổ thông và cho toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân. Giáo dục tiểu học
nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn
và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản góp phần
hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, giáo dục
tiểu học là nền móng đầu tiên giúp con người tồn tại và phát triển, trong đó môn
Tiếng Việt có một vị trí đặc biệt quan trọng vì nó hình thành và phát triển cho
học sinh khả năng giao tiếp, là cơ sở để phát triển tư duy cho trẻ, giúp trẻ tiếp
thu các môn học khác.
Trong việc dạy tiếng Việt cho học sinh đọc và hiểu được nội dung bài thì
phân môn Tập đọc có vai trò thật quan trọng. Phân môn Tập đọc giúp các em có
kĩ năng nghe tốt, đọc thông, viết thạo, đọc đúng còn giúp các em hiểu được nội
dung văn bản. Đọc diễn cảm giúp các em cảm thụ được những cái hay, cái đẹp
của nghệ thuật văn chương. Ngoài ra phân môn Tập đọc còn có tác dụng rất to
lớn trong việc giáo dục tình cảm cho học sinh của lứa tuổi tiểu học. Tuy nhiên
do đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi của các em chưa thể cảm nhận hết hoặc có cảm
nhận cũng không thể diễn đạt tốt vì vốn ngôn ngữ của các em còn quá đơn giản,
ít ỏi và chưa phong phú. Quá trình dạy Tập đọc, để các em đọc đúng đã là khó,
để các em đọc diễn cảm được văn bản còn khó khăn gấp nhiều lần.
Như vậy, để đạt được các yêu cầu trên và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao
về nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh đòi hỏi mỗi giáo viên
cần đẩy mạnh đổi mới phương pháp dạy học sao cho “nhẹ nhàng, chất lượng,
hiệu quả”.
2. Cơ sở thực tiễn
Theo chương trình đổi mới sách giáo khoa, phân môn Tập đọc lớp 4 gồm
62 bài tập đọc thuộc các loại hình văn bản nghệ thuật, trong đó có 45 bài văn
xuôi, 1 vở kịch, 17 bài thơ. Phân môn Tập đọc tiếp tục củng cố, nâng cao kĩ
năng đọc trơn, đọc thầm đã được hình thành, phát triển từ các lớp dưới đồng thời
rèn một kĩ năng mới là đọc diễn cảm (nghĩa là đọc phải thể hiện tình cảm, thái
độ qua giọng đọc phù hợp với sự việc, hình ảnh, cảm xúc, tính cách của nhân vật
trong bài).
1/15
Như vậy, việc rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh là một việc làm
không đơn giản và dễ dàng, đòi hỏi người giáo viên phải có những biện pháp cụ
thể để áp dụng thì mới nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy Tập đọc.
Khi vào thực tế giảng dạy thì phần lớn học sinh còn lúng túng, gặp nhiều
khó khăn. Hầu như các em chỉ đọc đúng, tức là dùng cơ quan thị giác để chuyển
các kí hiệu chữ viết trong văn bản thành dòng âm thanh ngôn ngữ. Số em đọc
diễn cảm đạt yêu cầu còn có phần hạn chế. Mà đọc diễn cảm hạn chế tức là hạn
chế năng lực cảm thụ văn học của các em. Điều này làm tôi trăn trở, lo lắng.
Xuất phát từ thực tiễn và kết hợp với suy nghĩ “làm thế nào để các em đọc
diễn cảm được tốt, giúp các em say mê, phấn khởi học tốt phân môn Tập đọc
(cũng như các phân môn khác của môn Tiếng Việt) và các môn học khác”, tôi đã
quyết định chọn đề tài “Rèn kĩ năng đọc diễn cảm các bài văn xuôi cho học
sinh lớp 4” làm đề tài nghiên cứu với mong muốn dùng tri thức đã học và kinh
nghiệm giảng dạy của bản thân để góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy phân
môn Tập đọc.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Nghiên cứu đề tài nhằm giúp học sinh lớp 4 có kĩ năng đọc diễn cảm đối
với các loại hình văn bản nghệ thuật, các bài văn xuôi giúp học sinh có khả năng
hiểu - cảm nhận nội dung và giá trị của bài Tập đọc một cách sâu hơn. Mặt khác,
tạo cơ sở để các em học tốt hơn ở các lớp trên và tạo điều kiện thuận lợi để các
em có thể vận dụng vào thực tế cuộc sống.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU, PHẠM VI NGHIÊN CỨU VÀ ÁP
DỤNG
1. Đối tượng nghiên cứu
“Rèn kĩ năng đọc diễn cảm các bài văn xuôi cho học sinh lớp 4”
2. Phạm vi nghiên cứu
Học sinh lớp 4 - Trường Tiểu học
3. Thời gian thực hiện đề tài
Năm học 2019 - 2020
2/15
B. QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
I. KHẢO SÁT THỰC TẾ
Trong quá trình giảng dạy, tôi nhận thấy rằng: Kĩ năng đọc diễn cảm của
học sinh còn yếu. Có những em đọc đúng còn chưa chuẩn, biểu hiện: Phát âm
ngọng, lẫn lộn các phụ âm (r/d/gi, s/x, ch/tr) hoặc vần (ưu/iu, ươu/iêu); đọc sai
dấu thanh (~/’/?/.). Hầu hết học sinh (kể cả học sinh khá, giỏi) đều đọc ngọng
những tiếng có phụ âm đầu l/n. Với những tiếng khó đọc, các em đọc còn nhát
gừng, ngắc ngứ. Mặt khác học sinh chưa biết nghỉ hơi sau dấu câu, học sinh còn
đọc theo bản năng, đọc tự do, thích nghỉ lúc nào thì nghỉ. Hoặc là khi đọc các
câu dài, các em không biết ngắt nghỉ giữa các cụm từ. Vì vậy, khi đọc lên sẽ làm
cho người nghe hiểu lầm, hiểu sai nghĩa của câu văn, ý thơ.
Với những học sinh đọc đúng tốt thì các em chưa có kĩ năng thể hiện
giọng điệu và biểu lộ cảm xúc khi đọc bài, tức là chưa biết đọc diễn cảm (đọc
hay).
Số liệu điều tra trước khi thực hiện:
- Giáo viên yêu cầu học sinh đọc bài Người ăn xin (tập I)
- Kết quả thu được như sau:
Tổng số học sinh
Đọc diễn cảm
Đọc đúng
Đọc chưa lưu loát
42 em
9 em = 21,4%
23 em = 54,8%
10 em = 23,8%
Trước thực trạng như vậy đòi hỏi người giáo viên phải có những biện
pháp tích cực giúp học sinh đọc đúng, đọc diễn cảm tốt, có hứng thú khi đọc
phân môn Tập đọc.
II. NGUYÊN NHÂN
Khi có kết quả khảo sát, tôi đi sâu vào phân tích và tìm hiểu được nguyên
nhân dẫn đến chất lượng đọc diễn cảm của học sinh còn hạn chế, đó là:
- Học sinh chưa làm chủ được ngữ điệu, nghĩa là chưa có kĩ năng phối
hợp các yếu tố âm thanh, cường độ, ngữ điệu để biểu thị ý nghĩa, phạm trù ngữ
pháp cũng như sắc thái cảm xúc biểu cảm.
- Do vốn từ ngữ còn hạn chế, các em chưa hiểu rõ các từ ngữ trong văn
bản dẫn đến ngắt nghỉ hơi không đúng văn bản và hiểu sai ý câu văn, nhất là
những câu văn có cấu trúc ngữ pháp phức tạp.
3/15
- Trong quá trình giảng dạy, giáo viên còn ít chú ý tới khâu luyện đọc cho
học sinh mà chủ yếu đi sâu vào bài giảng. Hoặc cũng có những giáo viên đã chú
ý đến khâu luyện đọc cho học sinh nhưng mới dừng lại ở mức độ luyện đọc trôi
chảy, đọc đúng mà chưa chú ý đến luyện đọc diễn cảm.
III. NHỮNG GIẢI PHÁP KHOA HỌC TIẾN HÀNH
1. Đọc mẫu
Việc đọc mẫu của giáo viên có ảnh hưởng lớn đối với học sinh, sẽ giúp
học sinh hiểu rõ hơn những khía cạnh tinh tế, những thái độ, tình cảm của tác
giả đối với các nhân vật trong tác phẩm. Đọc mẫu là biện pháp không thể thiếu
để hình thành cách đọc diễn cảm cho học sinh. Theo tôi, giọng đọc của giáo viên
là hết sức quan trọng. Giáo viên đọc diễn cảm toàn bài giúp học sinh định hướng
được cách đọc. Không những thế còn lôi cuốn, hấp dẫn, gây hứng thú học tập
cho học sinh. Tôi thấy, khi giáo viên đọc mẫu, các em rất chăm chú lắng nghe,
coi giọng đọc của cô lúc dó như là “thần tượng” để các em bắt chước theo, học
tập theo. Muốn đọc mẫu được hay, giọng đọc truyền cảm, giáo viên phải chuẩn
bị bài chu đáo trước khi lên lớp. Giáo viên phải tự luyện đọc và sửa giọng sao
cho phù hợp với bài đọc.
2. Rèn cho học sinh kĩ năng đọc đúng
Đọc đúng là sự tái hiện mặt âm thanh của bài đọc một cách chính xác,
không có lỗi; không đọc thừa, không đọc sót. Đọc đúng phải thể hiện đúng hệ
thống ngữ âm chuẩn, nghĩa là đọc đúng chính âm.
Ngay từ đầu năm học, tôi nhận thấy rằng việc rèn kĩ năng đọc đúng cho
học sinh là một điều không thể thiếu. Điều đó cũng giống như để thực hiện đúng
phép tính nhân (x), chia (:) trong toán học thì học sinh phải thuộc bảng cửu
chương vậy. Nên bắt đầu từ khi nhận lớp, tôi đã dặn các em về nhà đọc trước
những bài văn, bài thơ trong sách Tiếng Việt 4 (vì qua 3 tháng nghỉ hè, việc
luyện đọc của các em nhìn chung còn hạn chế). Giờ truy bài, các bàn trưởng, tổ
trưởng có nhiệm vụ kiểm tra các bạn trong bàn mình. Tôi hướng dẫn học sinh
đọc tốt hơn kèm cặp, giúp đỡ những học sinh đọc yếu. Nếu học sinh nào đọc
chưa tốt (đọc ngắc ngứ, đọc sai) thì các tổ trưởng ghi tên các bạn đó và báo cáo
với giáo viên chủ nhiệm để giáo kịp thời có biện pháp giúp đỡ.
Trong giờ Tập đọc, tôi thường xuyên chú trọng rèn luyện cho học sinh kĩ
năng đọc đúng ở phần luyện đọc, cụ thể là:
2.1 Hướng dẫn học sinh đọc đúng âm, vần, dấu thanh.
2.1.1 Đọc đúng các âm dễ lẫn
Đọc đúng là phát âm đúng hệ thống ngữ âm chuẩn. Nói cách khác là phải
đọc đúng chính âm (không đọc theo cách phát âm của địa phương, mà cách phát
âm có sự sai lệch so với âm chuẩn). Phát âm đúng tiếng Việt là yêu cầu cần
4/15
thiết. Đọc đúng đòi hỏi thể hiện chính xác âm vị. Để học sinh đọc đúng, trong
quá trình giảng dạy tôi đã cho các em phát hiện, so sánh, phân biệt để từ đó các
em phát âm đúng hay đọc đúng hay đọc đúng các âm đầu trong các bài đọc và
trong giao tiếp.
Khi học sinh đọc bài, giáo viên nghe thật tinh xem học sinh đó đọc có
chính xác không? Còn sai ở tiếng nào? Từ nào? Sau đó giáo viên ghi các từ các
em dễ đọc sai lên bảng cho học sinh đọc lại nhiều lần. Với những tiếng có cặp
phụ âm l/n thì việc rèn cho học sinh cần tỉ mỉ hơn vì đa phần các em đều phát
âm sai do ảnh hưởng của tiếng địa phương.
- Trước hết, tôi cho các em thấy tác hại của việc phát âm sai. Việc phát
âm sai dẫn đến người nghe hiểu lệch ý nghĩa của tiếng, của từ trong câu và dẫn
đến hiểu sai ý của văn bản.
+ Ví dụ: Khi dạy bài Dế Mèn bênh vực kẻ yếu (tập I) có câu:
“Năm trước, gặp khi trời làm đói kém, mẹ em phải vay lương ăn của bọn
Nhện” thì phải đọc là vay “lương” ăn chứ không đọc là vay “nương” ăn vì
“lương” ở đây là “lương thực”, “lương tháng”... khác “nương rẫy” hay “làm
nương”
Như vậy, chúng ta cần chỉ rõ cho học sinh khi nào phát âm là “l”, khi nào
phát âm đọc là “n” trên cơ sở học sinh hiểu nghĩa của từ.
Ngoài ra, tôi chú trọng rèn phát âm đúng hai phụ âm đầu l/n trong các tiết
Luyện phát âm của buổi học thứ hai, trong tất cả các tiết học, môn học khác.
2.1.2 Đọc đúng các vần
Không những yêu cầu học sinh đọc đúng phụ âm đầu (l/n) như trên mà
cần rèn cho các em đọc đúng cả những vần khó, tiếng khó, vần có nguyên âm
đôi mà các em hay phát âm sai, tôi đã hướng dẫn cụ thể như sau:
- Khi các em đọc bài, giáo viên cùng học sinh theo dõi. Nếu học sinh đọc
sai, giáo viên ghi lên bảng và sửa cho học sinh: “con hươu” (vần “ươu”) không
đọc là con “hiêu” (vần iêu), “về hưu” không đọc là “về hiu”, “uống rượu” không
đọc là “uống riệu” hoặc cho học sinh phát hiện các tiếng có vần khó như “tuyết,
khuyết, khúc khuỷu, đêm khuya, ngoằn ngoèo...” Giáo viên gọi học sinh đọc lại
những từ, tiếng có vần khó rồi giáo viên uốn nắn sửa luôn cho học sinh.
2.1.3 Đọc đúng dấu thanh
Bên cạnh hướng dẫn học sinh đọc đúng âm, vần như trên tôi còn luyện
cho học sinh đọc đúng dấu thanh.
5/15
Học sinh tiểu học vẫn còn có em chưa phát âm đúng, đọc đúng dấu thanh .
Các em còn phát âm sai ở dấu thanh như: thanh ngã (~) phát thành thanh sắc (')
như tiếng “mỡ” thành “mớ”... là sai nghĩa của câu. Chính vì thế cần rèn cho các
em đọc đúng dấu thanh trong các bài tập đọc như sau:
Giáo viên đưa ra các tiếng mà có dấu thanh hay lẫn. Giáo viên gọi một số
học sinh đọc. Học sinh khác nhận xét bạn đọc đúng dấu thanh chưa. Nếu vẫn
còn học sinh đọc chưa đúng thì giáo viên đọc mẫu và phân tích cho học sinh.
+ Ví dụ: Khi dạy bài Chị em tôi (tập I)
Trong bài các một số từ, chẳng hạn như: “tặc lưỡi” không đọc là “tặc
lưới”, “giận dữ” không đọc là “giận dứ”, “dũng cảm” không đọc là “dúng cảm”
....
2.2 Rèn tốc độ đọc
Trên cơ sở học sinh đã làm được yêu cầu phát âm đúng, giáo viên sẽ
chuyển sang yêu cầu đọc đúng tốc độ, tức là với một khoảng thời gian nhất định
cần phải đạt được một dung lượng theo quy định. Giáo viên cần hướng dẫn học
sinh đọc với tốc độ vừa phải, dễ nghe và phù hợp với nội dung của văn bản. Để
giúp học sinh đọc đúng tốc độ, giáo viên cần chú ý hướng dẫn học sinh:
Biết ngồi đọc với tư thế thoải mái cũng như biết giữ khoảng cách trung
bình giữa mắt và sách theo đúng quy định chung của việc đọc (khoảng 25 - 30
cm). Trước khi đọc được thành tiếng, học sinh cần đọc thầm tất cả các câu chữ
trong bài cần đọc.
Việc điều chỉnh tốc độ đọc là cần thiết. Với những em đọc quá tốc độ
bình thường, giáo viên nên đọc mẫu để các em có thể ước lượng và điều chỉnh
tốc độ đọc. Cũng có thể cho các em đọc nối tiếp nhau: em có tốc độ đọc nhanh
sẽ được đọc tiếp nối với các em có tốc độ trung bình. Với những em đọc chậm
so với tốc độ bình thường, giáo viên cũng có thể đọc mẫu để các em tự điều
chỉnh tăng tốc độ lên hoặc cho các em đọc chậm đọc tiếp nối với những em có
tốc độ đọc vừa phải. Cách tiến hành như vậy có thể giúp các em tự điều chỉnh
được tốc độ đọc của mình.
Tùy từng văn bản, tùy từng bài mà cần có tốc độ đọc cho phù hợp. Nhưng
giáo viên cần định hướng cách đọc chung, đó là không đọc liến thoắng, đọc
nhanh quá. Vì đọc như thế sẽ dễ bỏ sót từ hoặc sẽ vấp (đọc ngắc ngứ) khi gặp
những tiếng có vần khó đọc.
6/15
2.3 Rèn kĩ năng đọc diễn cảm
Kĩ năng đọc diễn cảm ở các văn bản nghệ thuật được luyện tập sau khi
học sinh đã đạt được những yêu cầu tối thiểu về đọc đúng, đọc rõ ràng, mạch
lạc; sau khi học sinh đã tìm hiểu và nắm được nội dung, ý nghĩa của bài đọc.
Muốn đọc diễn cảm một văn bản, phải lựa chọn được giọng điệu, ngữ điệu phù
hợp với tình huống miêu tả, thể hiện được tình cảm, thái độ, đặc điểm của nhân
vật hay tình cảm, thái độ của tác giả đối với nhân vật và nội dung miêu tả.
Để có kĩ năng đọc diễn cảm, giáo viên cần hướng dẫn các em luyện tập để
đạt được các yêu cầu trên theo mức độ từ thấp đến cao; cụ thể là:
2.3.1 Nhấn giọng các từ ngữ quan trọng trong câu
Các từ cần nhấn giọng đó là các từ ngữ gợi tả, gợi cảm, từ ngữ “chìa
khóa” làm nổi bật ý chính. Các từ loại như: từ láy, từ tượng hình, tượng thanh
thường được sử dụng nhiều, đặc biệt là trong văn miêu tả.
Sau khi phát hiện ra giọng đọc của từng đoạn, toàn bài, giáo viên yêu cầu
học sinh tự tìm các từ ngữ mà các em cần đọc nhấn giọng và giáo viên nhận xét,
bổ sung, học sinh gạch chân các từ ngữ đó.
+ Ví dụ: Bài Ông Trạng thả diều (tập I)
Khi đọc đoạn văn ca ngợi tính ham học và chịu khó của Nguyễn Hiền, cần
nhấn giọng các từ ngữ:
“Đã học thì cũng phải đèn sách như ai nhưng sách của chú là lưng trâu,
nền cát, bút và ngón tay hay mảnh gạch vỡ, còn đèn là vỏ trứng thả đom đóm
vào trong”.
2.3.2 Biết thể hiện ngữ điệu (sự thay đổi về tốc độ, cao độ, cường độ,
trường độ) phù hợp với từng loại câu (câu hỏi, câu kể, câu cảm, câu cầu
khiến…).
Trong một tác phẩm, để thể hiện nội dung được sinh động, hình ảnh hấp
dẫn, chân thật thì tác giả phải sử dụng linh hoạt nhiều kiểu câu. Mỗi kiểu câu lại
phải được thể hiện ngữ điệu theo một cách khác nhau. Nếu cứ đọc đều đều, câu
nào cũng giống nhau thì bài văn mất đi cái hay và nét đặc sắc của nó. Vì thế giáo
viên giúp học sinh nhận ra cách thể hiện ngữ điệu.
+ Ví dụ: đọc bài Người ăn xin ( tập I) có câu:
“Đôi môi tái nhợt, quần áo tả tơi thảm hại…” thì đọc nghỉ hơi dài sau
chỗ có dấu chấm lửng thể hiện sự ngậm ngùi, xót thương.
7/15
“Chao ôi! Cảnh nghèo đói đã gặm nát con người đau khổ kia thành xấu
xí biết nhường nào!” thì đọc như một lời than.
“Cháu ơi, cảm ơn cháu! Như vậy là cháu đã cho lão rồi.”- đọc như một
lời cảm ơn chân thành, xúc động.
Để thực hiện được biện pháp này đòi hỏi giáo viên phải làm thường xuyên
đối với văn bản thể hiện các kiểu câu như trên.
2.3.3 Biết đọc phân biệt lời kể của tác giả với lời của nhân vật:
Biện pháp này nhằm giúp học sinh đọc thể hiện sự phân biệt giữa lời kể
của tác giả với lời nhân vật trong tác phẩm. Đọc giọng lời kể của tác giả chính là
giọng đọc chung của bài. Còn tùy từng nhân vật mà thái độ thể hiện qua giọng
đọc lại khác nhau.
+ Ví dụ: Bài Những hạt thóc giống.
Giáo viên cần định hướng cho học sinh: đọc diễn cảm với giọng chậm rãi.
\ Còn lời cậu bé Chôm tâu vua thì ngây thơ, lo lắng: “Tâu Bệ hạ! Con
không làm sao cho thóc nảy mầm được”
\ Lời nhà vua:
* Khi thì ôn tồn: “Trước khi phát thóc giống, ta đã cho luộc kĩ rồi. Lẽ nào
thóc ấy còn mọc được? Những xe thóc đầy ắp kia đâu phải thu được từ thóc
giống của ta!”.
* Khi thì dõng dạc (khen ngợi Chôm): “Trung thực là đức tính quý nhất
của con người. Ta sẽ truyền ngôi cho chú bé trung thực và dũng cảm này.”.
Ngoài ra, có những tác phẩm cần phải thể hiện sự phân biệt lời của các
nhân vật sao cho phù hợp với đặc điểm lứa tuổi và tính cách của từng nhân vật
(người già, trẻ em, người tốt, kẻ xấu…)
Đối với những bài cần thể hiện nhiều giọng đọc theo các kiểu câu, để
tránh học sinh đọc lên xuống giọng tùy tiện, giáo viên phải hướng dẫn thật tốt
khái niệm các kiểu câu và cách đọc các kiểu câu:
- Câu kể (ở cuối câu có dấu chấm): khi đọc thường phải xuống giọng ở cuối câu.
- Câu hỏi ( ở cuối câu có dấu chấm hỏi): khi đọc phải lên giọng ở cuối câu.
- Câu cảm, câu khiến (ở cuối câu có dấu chấm than) khi đọc phải lên giọng ở cuối câu.
- Câu kể có dấu chấm lửng khi đọc phải kéo dài giọng.
8/15
Tóm lại: Sự thành công của việc đọc diễn cảm phụ thuộc rất nhiều vào sự
thể hiện giọng đọc, sự phân biệt giọng (như đã trình bày ở trên). Giáo viên làm
tốt biện pháp này là đã góp phần quan trọng vào sự thành công của việc rèn
luyện kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh.
2.3.4 Phân tích cách ngắt nghỉ hơi
Cùng với việc rèn luyện kĩ năng đọc đúng, xác định giọng điệu phù hợp
nội dung bài thì học sinh cần biết cách ngắt nghỉ hơi đúng (nghỉ nhanh, tự
nhiên). Mỗi câu văn, dù ngắn hay dài thì đều phải có cách nghỉ hơi phù hợp để
không gây hiểu lầm hoặc gây mơ hồ về nghĩa. Cũng giống như phát âm sai, nếu
nghỉ hơi sai dẫn đến người nghe hiểu sai, hiểu lệch ý nghĩa của câu văn, ý văn
mà tác giả muốn gửi gắm tới người đọc. Theo tôi, đối với bài văn xuôi, chỗ nghỉ
hơi phải trùng với ranh giới của ngữ đoạn. Đây là khái niệm gắn với nghĩa, gắn
với quan hệ ngữ pháp. Nhờ hiểu nghĩa và các quan hệ ngữ pháp mới đọc được
đúng, giúp người nghe hiểu được nội dung bài. Qua những giờ dạy Tập đọc, tôi
thấy: Học sinh thường nghỉ hơi sai vì các em chưa chú ý đến kiến thức ngữ
pháp. Cụ thể là các từ đơn, từ ghép hay cấu trúc câu gồm chủ ngữ - vị ngữ. Khi
đọc, các em thường nghỉ hơi tự do, có khi một từ tách ra làm 2 hoặc không nghỉ
hơi đúng ở ranh giới giữa chủ ngữ và vị ngữ. Mặt khác, học sinh thường mắc lỗi
ngắt nhịp ở những câu dài, có cấu trúc ngữ pháp phức tạp.
+ Ví dụ: trong bài Một người chính trực (tập I) có câu:
“Còn gián nghị đại phu Trần Trung Tá do bận nhiều công việc nên
không mấy khi tới thăm Tô Hiến Thành được.”
Giáo viên hướng dẫn cho học sinh cách nghỉ hơi đúng (nhanh, tự nhiên)
giữa các cụm từ trong câu trên như sau:
“ Còn gián nghị đại phu Trần Trung Tá/ do bận nhiều công việc/ nên
không mấy khi tới thăm Tô Hiến Thành được.”
Để giúp học sinh ngắt nhịp đúng, tôi đưa ra biện pháp sau:
* Giúp học sinh nắm chắc khái niệm “từ đơn”, “từ ghép” trong phân môn
luyện từ và câu. Các em được thực hành nhiều trong giờ luyện tập với những bài
tập phân biệt từ đơn, từ ghép trong câu văn, đoạn văn.
* Giúp học sinh có kĩ năng xác định chủ ngữ - vị ngữ trong câu để không
mắc sai lầm ngắt nhịp.
9/15
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "SKKN Rèn kĩ năng đọc diễn cảm các bài văn xuôi cho học sinh Lớp 4", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- skkn_ren_ki_nang_doc_dien_cam_cac_bai_van_xuoi_cho_hoc_sinh.docx