SKKN Rèn kĩ năng đọc diễn cảm các bài văn xuôi cho học sinh Lớp 4

Việc đọc mẫu của giáo viên có ảnh hưởng lớn đối với học sinh, sẽ giúp học sinh hiểu rõ hơn những khía cạnh tinh tế, những thái độ, tình cảm của tác giả đối với các nhân vật trong tác phẩm. Đọc mẫu là biện pháp không thể thiếu để hình thành cách đọc diễn cảm cho học sinh. Theo tôi, giọng đọc của giáo viên là hết sức quan trọng. Giáo viên đọc diễn cảm toàn bài giúp học sinh định hướng được cách đọc. Không những thế còn lôi cuốn, hấp dẫn, gây hứng thú học tập cho học sinh. Tôi thấy, khi giáo viên đọc mẫu, các em rất chăm chú lắng nghe, coi giọng đọc của cô lúc dó như là “thần tượng” để các em bắt chước theo, học tập theo. Muốn đọc mẫu được hay, giọng đọc truyền cảm, giáo viên phải chuẩn bị bài chu đáo trước khi lên lớp. Giáo viên phải tự luyện đọc và sửa giọng sao cho phù hợp với bài đọc.
MỤC LỤC  
A. ĐẶT VẤN ĐỀ  
I. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ  
1. Cơ sở luận  
Tiểu học cấp học nền tảng đặt cơ sở ban đầu cho việc hình thành và  
phát triển toàn diện nhân cách của con người, đặt nền tảng vững chắc cho giáo  
dục phổ thông và cho toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân. Giáo dục tiểu học  
nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn  
và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản góp phần  
hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, giáo dục  
tiểu học nền móng đầu tiên giúp con người tồn tại và phát triển, trong đó môn  
Tiếng Việt một vị trí đặc biệt quan trọng vì nó hình thành và phát triển cho  
học sinh khả năng giao tiếp, cơ sở để phát triển tư duy cho trẻ, giúp trẻ tiếp  
thu các môn học khác.  
Trong việc dạy tiếng Việt cho học sinh đọc hiểu được nội dung bài thì  
phân môn Tập đọc có vai trò thật quan trọng. Phân môn Tập đọc giúp các em có  
kĩ năng nghe tốt, đọc thông, viết thạo, đọc đúng còn giúp các em hiểu được nội  
dung văn bản. Đọc diễn cảm giúp các em cảm thụ được những cái hay, cái đẹp  
của nghệ thuật văn chương. Ngoài ra phân môn Tập đọc còn có tác dụng rất to  
lớn trong việc giáo dục tình cảm cho học sinh của lứa tuổi tiểu học. Tuy nhiên  
do đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi của các em chưa thể cảm nhận hết hoặc cảm  
nhận cũng không thể diễn đạt tốt vốn ngôn ngữ của các em còn quá đơn giản,  
ít ỏi chưa phong phú. Quá trình dạy Tập đọc, để các em đọc đúng đã là khó,  
để các em đọc diễn cảm được văn bản còn khó khăn gấp nhiều lần.  
Như vậy, để đạt được các yêu cầu trên và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao  
về nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh đòi hỏi mỗi giáo viên  
cần đẩy mạnh đổi mới phương pháp dạy học sao cho “nhẹ nhàng, chất lượng,  
hiệu quả”.  
2. Cơ sở thực tiễn  
Theo chương trình đổi mới sách giáo khoa, phân môn Tập đọc lớp 4 gồm  
62 bài tập đọc thuộc các loại hình văn bản nghệ thuật, trong đó có 45 bài văn  
xuôi, 1 vở kịch, 17 bài thơ. Phân môn Tập đọc tiếp tục củng cố, nâng cao kĩ  
năng đọc trơn, đọc thầm đã được hình thành, phát triển từ các lớp dưới đồng thời  
rèn một kĩ năng mới đọc diễn cảm (nghĩa đọc phải thể hiện tình cảm, thái  
độ qua giọng đọc phù hợp với sự việc, hình ảnh, cảm xúc, tính cách của nhân vật  
trong bài).  
1/15  
       
Như vậy, việc rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh là một việc làm  
không đơn giản dễ dàng, đòi hỏi người giáo viên phải những biện pháp cụ  
thể để áp dụng thì mới nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy Tập đọc.  
Khi vào thực tế giảng dạy thì phần lớn học sinh còn lúng túng, gặp nhiều  
khó khăn. Hầu ncác em chỉ đọc đúng, tức là dùng quan thị giác để chuyển  
các kí hiệu chữ viết trong văn bản thành dòng âm thanh ngôn ngữ. Số em đọc  
diễn cảm đạt yêu cầu còn có phần hạn chế. đọc diễn cảm hạn chế tức hạn  
chế năng lực cảm thụ văn học của các em. Điều này làm tôi trăn trở, lo lắng.  
Xuất phát từ thực tiễn kết hợp với suy nghĩ “làm thế nào để các em đọc  
diễn cảm được tốt, giúp các em say mê, phấn khởi học tốt phân môn Tập đọc  
(cũng như các phân môn khác của môn Tiếng Việt) và các môn học khác”, tôi đã  
quyết định chọn đề tài “Rèn kĩ năng đọc diễn cảm các bài văn xuôi cho học  
sinh lớp 4” làm đề tài nghiên cứu với mong muốn dùng tri thức đã học và kinh  
nghiệm giảng dạy của bản thân để góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy phân  
môn Tập đọc.  
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM  
Nghiên cứu đề tài nhằm giúp học sinh lớp 4 có kĩ năng đọc diễn cảm đối  
với các loại hình văn bản nghệ thuật, các bài văn xuôi giúp học sinh có khả năng  
hiểu - cảm nhận nội dung và giá trị của bài Tập đọc một cách sâu hơn. Mặt khác,  
tạo cơ sở để các em học tốt hơn ở các lớp trên và tạo điều kiện thuận lợi để các  
em có thể vận dụng vào thực tế cuộc sống.  
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CU, PHM VI NGHIÊN CU VÀ ÁP  
DNG  
1. Đối tượng nghiên cứu  
Rèn kĩ năng đọc diễn cảm các bài văn xuôi cho học sinh lớp 4”  
2. Phạm vi nghiên cứu  
Học sinh lớp 4 - Trường Tiểu học  
3. Thời gian thực hiện đề tài  
Năm học 2019 - 2020  
2/15  
         
B. QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN ĐỀ TÀI  
I. KHẢO SÁT THỰC TẾ  
Trong quá trình giảng dạy, tôi nhận thấy rằng: Kĩ năng đọc diễn cảm của  
học sinh còn yếu. những em đọc đúng còn chưa chuẩn, biểu hiện: Phát âm  
ngọng, lẫn lộn các phụ âm (r/d/gi, s/x, ch/tr) hoặc vần (ưu/iu, ươu/iêu); đọc sai  
dấu thanh (~/’/?/.). Hầu hết học sinh (kể cả học sinh khá, giỏi) đều đọc ngọng  
những tiếng phụ âm đầu l/n. Với những tiếng khó đọc, các em đọc còn nhát  
gừng, ngắc ngứ. Mặt khác học sinh chưa biết nghỉ hơi sau dấu câu, học sinh còn  
đọc theo bản năng, đọc tự do, thích nghỉ lúc nào thì nghỉ. Hoặc là khi đọc các  
câu dài, các em không biết ngắt nghỉ giữa các cụm từ. vậy, khi đọc lên sẽ làm  
cho người nghe hiểu lầm, hiểu sai nghĩa của câu văn, ý thơ.  
Với những học sinh đọc đúng tốt thì các em chưa kĩ năng thể hiện  
giọng điệu biểu lộ cảm xúc khi đọc bài, tức chưa biết đọc diễn cảm (đọc  
hay).  
Số liệu điều tra trước khi thực hiện:  
- Giáo viên yêu cầu học sinh đọc bài Người ăn xin (tập I)  
- Kết quả thu được như sau:  
Tổng số học sinh  
Đọc diễn cảm  
Đọc đúng  
Đọc chưa lưu loát  
42 em  
9 em = 21,4%  
23 em = 54,8%  
10 em = 23,8%  
Trước thực trạng như vậy đòi hỏi người giáo viên phải những biện  
pháp tích cực giúp học sinh đọc đúng, đọc diễn cảm tốt, hứng thú khi đọc  
phân môn Tập đọc.  
II. NGUYÊN NHÂN  
Khi có kết quả khảo sát, tôi đi sâu vào phân tích và tìm hiểu được nguyên  
nhân dẫn đến chất lượng đọc diễn cảm của học sinh còn hạn chế, đó là:  
- Học sinh chưa làm chủ được ngữ điệu, nghĩa chưa kĩ năng phối  
hợp các yếu tố âm thanh, cường độ, ngữ điệu để biểu thị ý nghĩa, phạm trù ngữ  
pháp cũng như sắc thái cảm xúc biểu cảm.  
- Do vốn từ ngữ còn hạn chế, các em chưa hiểu rõ các từ ngữ trong văn  
bản dẫn đến ngắt nghỉ hơi không đúng văn bản hiểu sai ý câu văn, nhất là  
những câu văn cấu trúc ngữ pháp phức tạp.  
3/15  
   
- Trong quá trình giảng dạy, giáo viên còn ít chú ý tới khâu luyện đọc cho  
học sinh mà chủ yếu đi sâu vào bài giảng. Hoặc cũng những giáo viên đã chú  
ý đến khâu luyện đọc cho học sinh nhưng mới dừng lại ở mức độ luyện đọc trôi  
chảy, đọc đúng chưa chú ý đến luyện đọc diễn cảm.  
III. NHỮNG GIẢI PHÁP KHOA HỌC TIẾN HÀNH  
1. Đọc mẫu  
Việc đọc mẫu của giáo viên có ảnh hưởng lớn đối với học sinh, sẽ giúp  
học sinh hiểu hơn những khía cạnh tinh tế, những thái độ, tình cảm của tác  
giả đối với các nhân vật trong tác phẩm. Đọc mẫu biện pháp không thể thiếu  
để hình thành cách đọc diễn cảm cho học sinh. Theo tôi, giọng đọc của giáo viên  
hết sức quan trọng. Giáo viên đọc diễn cảm toàn bài giúp học sinh định hướng  
được cách đọc. Không những thế còn lôi cuốn, hấp dẫn, gây hứng thú học tập  
cho học sinh. Tôi thấy, khi giáo viên đọc mẫu, các em rất chăm chú lắng nghe,  
coi giọng đọc của cô lúc dó như “thần tượng” để các em bắt chước theo, học  
tập theo. Muốn đọc mẫu được hay, giọng đọc truyền cảm, giáo viên phải chuẩn  
bị bài chu đáo trước khi lên lớp. Giáo viên phải tự luyện đọc sửa giọng sao  
cho phù hợp với bài đọc.  
2. Rèn cho học sinh kĩ năng đọc đúng  
Đọc đúng sự tái hiện mặt âm thanh của bài đọc một cách chính xác,  
không có lỗi; không đọc thừa, không đọc sót. Đọc đúng phải thể hiện đúng hệ  
thống ngữ âm chuẩn, nghĩa đọc đúng chính âm.  
Ngay từ đầu năm học, tôi nhận thấy rằng việc rèn kĩ năng đọc đúng cho  
học sinh là một điều không thể thiếu. Điều đó cũng giống như để thực hiện đúng  
phép tính nhân (x), chia (:) trong toán học thì học sinh phải thuộc bảng cửu  
chương vậy. Nên bắt đầu từ khi nhận lớp, tôi đã dặn các em về nhà đọc trước  
những bài văn, bài thơ trong sách Tiếng Việt 4 (vì qua 3 tháng nghỉ hè, việc  
luyện đọc của các em nhìn chung còn hạn chế). Giờ truy bài, các bàn trưởng, tổ  
trưởng nhiệm vụ kiểm tra các bạn trong bàn mình. Tôi hướng dẫn học sinh  
đọc tốt hơn kèm cặp, giúp đỡ những học sinh đọc yếu. Nếu học sinh nào đọc  
chưa tốt (đọc ngắc ngứ, đọc sai) thì các tổ trưởng ghi tên các bạn đó và báo cáo  
với giáo viên chủ nhiệm để giáo kịp thời biện pháp giúp đỡ.  
Trong giờ Tập đọc, tôi thường xuyên chú trọng rèn luyện cho học sinh kĩ  
năng đọc đúng ở phần luyện đọc, cụ thể là:  
2.1 Hướng dẫn học sinh đọc đúng âm, vần, dấu thanh.  
2.1.1 Đọc đúng các âm dễ lẫn  
Đọc đúng là phát âm đúng hệ thống ngữ âm chuẩn. Nói cách khác là phải  
đọc đúng chính âm (không đọc theo cách phát âm của địa phương, mà cách phát  
âm có sự sai lệch so với âm chuẩn). Phát âm đúng tiếng Việt là yêu cầu cần  
4/15  
         
thiết. Đọc đúng đòi hỏi thể hiện chính xác âm vị. Để học sinh đọc đúng, trong  
quá trình giảng dạy tôi đã cho các em phát hiện, so sánh, phân biệt để từ đó các  
em phát âm đúng hay đọc đúng hay đọc đúng các âm đầu trong các bài đọc và  
trong giao tiếp.  
Khi học sinh đọc bài, giáo viên nghe thật tinh xem học sinh đó đọc có  
chính xác không? Còn sai ở tiếng nào? Từ nào? Sau đó giáo viên ghi các từ các  
em dễ đọc sai lên bảng cho học sinh đọc lại nhiều lần. Với những tiếng cặp  
phụ âm l/n thì việc rèn cho học sinh cần tỉ mỉ hơn đa phần các em đều phát  
âm sai do ảnh hưởng của tiếng địa phương.  
- Trước hết, tôi cho các em thấy tác hại của việc phát âm sai. Việc phát  
âm sai dẫn đến người nghe hiểu lệch ý nghĩa của tiếng, của từ trong câu và dẫn  
đến hiểu sai ý của văn bản.  
+ Ví dụ: Khi dạy bài Dế Mèn bênh vực kẻ yếu (tập I) có câu:  
“Năm trước, gặp khi trời làm đói kém, mẹ em phải vay lương ăn của bọn  
Nhện” thì phải đọc là vay “lương” ăn chứ không đọc là vay “nương” ăn vì  
“lương” ở đây “lương thực”, “lương tháng”... khác “nương rẫy” hay “làm  
nương”  
Như vậy, chúng ta cần chỉ rõ cho học sinh khi nào phát âm là “l”, khi nào  
phát âm đọc là “n” trên cơ sở học sinh hiểu nghĩa của từ.  
Ngoài ra, tôi chú trọng rèn phát âm đúng hai phụ âm đầu l/n trong các tiết  
Luyện phát âm của buổi học thứ hai, trong tất cả các tiết học, môn học khác.  
2.1.2 Đọc đúng các vần  
Không những yêu cầu học sinh đọc đúng phụ âm đầu (l/n) như trên mà  
cần rèn cho các em đọc đúng cả những vần khó, tiếng khó, vần có nguyên âm  
đôi mà các em hay phát âm sai, tôi đã hướng dẫn cụ thể như sau:  
- Khi các em đọc bài, giáo viên cùng học sinh theo dõi. Nếu học sinh đọc  
sai, giáo viên ghi lên bảng sửa cho học sinh: “con hươu” (vần “ươu”) không  
đọc là con “hiêu(vần iêu), “về hưu” không đọc “về hiu”, “uống rượukhông  
đọc “uống riệu” hoặc cho học sinh phát hiện các tiếng vần khó như “tuyết,  
khuyết, khúc khuỷu, đêm khuya, ngoằn ngoèo...” Giáo viên gọi học sinh đọc lại  
những từ, tiếng vần khó rồi giáo viên uốn nắn sửa luôn cho học sinh.  
2.1.3 Đọc đúng dấu thanh  
Bên cạnh hướng dẫn học sinh đọc đúng âm, vần như trên tôi còn luyện  
cho học sinh đọc đúng dấu thanh.  
5/15  
   
Học sinh tiểu học vẫn còn có em chưa phát âm đúng, đọc đúng dấu thanh .  
Các em còn phát âm sai ở dấu thanh như: thanh ngã (~) phát thành thanh sắc (')  
như tiếng “mỡ” thành “mớ”... là sai nghĩa của câu. Chính vì thế cần rèn cho các  
em đọc đúng dấu thanh trong các bài tập đọc như sau:  
Giáo viên đưa ra các tiếng mà có dấu thanh hay lẫn. Giáo viên gọi một số  
học sinh đọc. Học sinh khác nhận xét bạn đọc đúng dấu thanh chưa. Nếu vẫn  
còn học sinh đọc chưa đúng thì giáo viên đọc mẫu và phân tích cho học sinh.  
+ Ví dụ: Khi dạy bài Chị em tôi (tập I)  
Trong bài các một số từ, chẳng hạn như: “tặc lưỡi” không đọc “tặc  
lưới”, “giận dữ” không đọc “giận dứ”, “dũng cảm” không đọc là “dúng cảm”  
....  
2.2 Rèn tốc độ đọc  
Trên cơ sở học sinh đã làm được yêu cầu phát âm đúng, giáo viên sẽ  
chuyển sang yêu cầu đọc đúng tốc độ, tức với một khoảng thời gian nhất định  
cần phải đạt được một dung lượng theo quy định. Giáo viên cần hướng dẫn học  
sinh đọc với tốc độ vừa phải, dễ nghe và phù hợp với nội dung của văn bản. Để  
giúp học sinh đọc đúng tốc độ, giáo viên cần chú ý hướng dẫn học sinh:  
Biết ngồi đọc với tư thế thoải mái cũng như biết giữ khoảng cách trung  
bình giữa mắt và sách theo đúng quy định chung của việc đọc (khoảng 25 - 30  
cm). Trước khi đọc được thành tiếng, học sinh cần đọc thầm tất cả các câu chữ  
trong bài cần đọc.  
Việc điều chỉnh tốc độ đọc cần thiết. Với những em đọc quá tốc độ  
bình thường, giáo viên nên đọc mẫu để các em có thể ước lượng điều chỉnh  
tốc độ đọc. Cũng thể cho các em đọc nối tiếp nhau: em có tốc độ đọc nhanh  
sẽ được đọc tiếp nối với các em có tốc độ trung bình. Với những em đọc chậm  
so với tốc độ bình thường, giáo viên cũng thể đọc mẫu để các em tự điều  
chỉnh tăng tốc độ lên hoặc cho các em đọc chậm đọc tiếp nối với những em có  
tốc độ đọc vừa phải. Cách tiến hành như vậy thể giúp các em tự điều chỉnh  
được tốc độ đọc của mình.  
Tùy từng văn bản, tùy từng bài mà cần tốc độ đọc cho phù hợp. Nhưng  
giáo viên cần định hướng cách đọc chung, đó là không đọc liến thoắng, đọc  
nhanh quá. Vì đọc như thế sẽ dễ bỏ sót từ hoặc sẽ vấp (đọc ngắc ngứ) khi gặp  
những tiếng vần khó đọc.  
6/15  
 
2.3 Rèn kĩ năng đọc diễn cảm  
Kĩ năng đọc diễn cảm ở các văn bản nghệ thuật được luyện tập sau khi  
học sinh đã đạt được những yêu cầu tối thiểu về đọc đúng, đọc rõ ràng, mạch  
lạc; sau khi học sinh đã tìm hiểu nắm được nội dung, ý nghĩa của bài đọc.  
Muốn đọc diễn cảm một văn bản, phải lựa chọn được giọng điệu, ngữ điệu phù  
hợp với tình huống miêu tả, thể hiện được tình cảm, thái độ, đặc điểm của nhân  
vật hay tình cảm, thái độ của tác giả đối với nhân vật nội dung miêu tả.  
Để kĩ năng đọc diễn cảm, giáo viên cần hướng dẫn các em luyện tập để  
đạt được các yêu cầu trên theo mức độ từ thấp đến cao; cụ thể là:  
2.3.1 Nhấn giọng các từ ngữ quan trọng trong câu  
Các từ cần nhấn giọng đó là các từ ngữ gợi tả, gợi cảm, từ ngữ “chìa  
khóa” làm nổi bật ý chính. Các từ loại như: từ láy, từ tượng hình, tượng thanh  
thường được sử dụng nhiều, đặc biệt là trong văn miêu tả.  
Sau khi phát hiện ra giọng đọc của từng đoạn, toàn bài, giáo viên yêu cầu  
học sinh tự tìm các từ ngữ mà các em cần đọc nhấn giọng và giáo viên nhận xét,  
bổ sung, học sinh gạch chân các từ ngữ đó.  
+ Ví dụ: Bài Ông Trạng thả diều (tập I)  
Khi đọc đoạn văn ca ngợi tính ham học chịu khó của Nguyễn Hiền, cần  
nhấn giọng các từ ngữ:  
“Đã học thì cũng phải đèn sách như ai nhưng sách của chú là lưng trâu,  
nền cát, bút và ngón tay hay mảnh gạch vỡ, còn đèn vỏ trứng thả đom đóm  
vào trong”.  
2.3.2 Biết thể hiện ngữ điệu (sự thay đổi về tốc độ, cao độ, cường độ,  
trường độ) phù hợp với từng loại câu (câu hỏi, câu kể, câu cảm, câu cầu  
khiến…).  
Trong một tác phẩm, để thể hiện nội dung được sinh động, hình ảnh hấp  
dẫn, chân thật thì tác giả phải sử dụng linh hoạt nhiều kiểu câu. Mỗi kiểu câu lại  
phải được thể hiện ngữ điệu theo một cách khác nhau. Nếu cứ đọc đều đều, câu  
nào cũng giống nhau thì bài văn mất đi cái hay và nét đặc sắc của nó. Vì thế giáo  
viên giúp học sinh nhận ra cách thể hiện ngữ điệu.  
+ Ví dụ: đọc bài Người ăn xin ( tập I) có câu:  
“Đôi môi tái nhợt, quần áo tả tơi thảm hại…” thì đọc nghỉ hơi dài sau  
chỗ dấu chấm lửng thể hiện sự ngậm ngùi, xót thương.  
7/15  
     
“Chao ôi! Cảnh nghèo đói đã gặm nát con người đau khổ kia thành xấu  
biết nhường nào!” thì đọc như một lời than.  
Cháu ơi, cảm ơn cháu! Như vậy là cháu đã cho lão rồi.”- đọc như một  
lời cảm ơn chân thành, xúc động.  
Để thực hiện được biện pháp này đòi hỏi giáo viên phải làm thường xuyên  
đối với văn bản thể hiện các kiểu câu như trên.  
2.3.3 Biết đọc phân biệt lời kể của tác giả với lời của nhân vật:  
Biện pháp này nhằm giúp học sinh đọc thể hiện sự phân biệt giữa lời kể  
của tác giả với lời nhân vật trong tác phẩm. Đọc giọng lời kể của tác giả chính là  
giọng đọc chung của bài. Còn tùy từng nhân vật mà thái độ thể hiện qua giọng  
đọc lại khác nhau.  
+ Ví dụ: Bài Những hạt thóc giống.  
Giáo viên cần định hướng cho học sinh: đọc diễn cảm với giọng chậm rãi.  
\ Còn lời cậu bé Chôm tâu vua thì ngây thơ, lo lắng: “Tâu Bệ hạ! Con  
không làm sao cho thóc nảy mầm được”  
\ Lời nhà vua:  
* Khi thì ôn tồn: Trước khi phát thóc giống, ta đã cho luộc kĩ rồi. Lẽ nào  
thóc ấy còn mọc được? Những xe thóc đầy ắp kia đâu phải thu được từ thóc  
giống của ta!”.  
* Khi thì dõng dạc (khen ngợi Chôm): “Trung thực đức tính quý nhất  
của con người. Ta sẽ truyền ngôi cho chú bé trung thực dũng cảm này.”.  
Ngoài ra, có những tác phẩm cần phải thể hiện sự phân biệt lời của các  
nhân vật sao cho phù hợp với đặc điểm lứa tuổi và tính cách của từng nhân vật  
(người già, trẻ em, người tốt, kẻ xấu…)  
Đối với những bài cần thể hiện nhiều giọng đọc theo các kiểu câu, để  
tránh học sinh đọc lên xuống giọng tùy tiện, giáo viên phải hướng dẫn thật tốt  
khái niệm các kiểu câu và cách đọc các kiểu câu:  
- Câu k(cui câu có du chm): khi đọc thường phi xung ging cui câu.  
- Câu hi ( cui câu có du chm hi): khi đọc phi lên ging cui câu.  
- Câu cm, câu khiến (cui câu có du chm than) khi đọc phi lên ging cui câu.  
- Câu kcó du chm lng khi đọc phi kéo dài ging.  
8/15  
 
Tóm lại: Sự thành công của việc đọc diễn cảm phụ thuộc rất nhiều vào sự  
thể hiện giọng đọc, sự phân biệt giọng (như đã trình bày trên). Giáo viên làm  
tốt biện pháp này là đã góp phần quan trọng vào sự thành công của việc rèn  
luyện kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh.  
2.3.4 Phân tích cách ngắt nghỉ hơi  
Cùng với việc rèn luyện kĩ năng đọc đúng, xác định giọng điệu phù hợp  
nội dung bài thì học sinh cần biết cách ngắt nghỉ hơi đúng (nghỉ nhanh, tự  
nhiên). Mỗi câu văn, ngắn hay dài thì đều phải có cách nghỉ hơi phù hợp để  
không gây hiểu lầm hoặc gây mơ hồ về nghĩa. Cũng giống như phát âm sai, nếu  
nghỉ hơi sai dẫn đến người nghe hiểu sai, hiểu lệch ý nghĩa của câu văn, ý văn  
mà tác giả muốn gửi gắm tới người đọc. Theo tôi, đối với bài văn xuôi, chỗ nghỉ  
hơi phải trùng với ranh giới của ngữ đoạn. Đây là khái niệm gắn với nghĩa, gắn  
với quan hệ ngữ pháp. Nhờ hiểu nghĩa và các quan hệ ngữ pháp mới đọc được  
đúng, giúp người nghe hiểu được nội dung bài. Qua những giờ dạy Tập đọc, tôi  
thấy: Học sinh thường nghỉ hơi sai vì các em chưa chú ý đến kiến thức ngữ  
pháp. Cụ thể là các từ đơn, từ ghép hay cấu trúc câu gồm chủ ngữ - vị ngữ. Khi  
đọc, các em thường nghỉ hơi tự do, có khi một từ tách ra làm 2 hoặc không nghỉ  
hơi đúng ranh giới giữa chủ ngữ vị ngữ. Mặt khác, học sinh thường mắc lỗi  
ngắt nhịp ở những câu dài, có cấu trúc ngữ pháp phức tạp.  
+ Ví dụ: trong bài Một người chính trực (tập I) có câu:  
“Còn gián nghị đại phu Trần Trung Tá do bận nhiều công việc nên  
không mấy khi tới thăm Hiến Thành được.”  
Giáo viên hướng dẫn cho học sinh cách nghỉ hơi đúng (nhanh, tự nhiên)  
giữa các cụm từ trong câu trên như sau:  
“ Còn gián nghị đại phu Trần Trung Tá/ do bận nhiều công việc/ nên  
không mấy khi tới thăm Hiến Thành được.”  
Để giúp học sinh ngắt nhịp đúng, tôi đưa ra biện pháp sau:  
* Giúp học sinh nắm chắc khái niệm “từ đơn”, “từ ghép” trong phân môn  
luyện từ và câu. Các em được thực hành nhiều trong giờ luyện tập với những bài  
tập phân biệt từ đơn, từ ghép trong câu văn, đoạn văn.  
* Giúp học sinh có kĩ năng xác định chủ ngữ - vị ngữ trong câu để không  
mắc sai lầm ngắt nhịp.  
9/15  
 

Tải về để xem bản đầy đủ

docx 17 trang huongnguyen 21/10/2024 50
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "SKKN Rèn kĩ năng đọc diễn cảm các bài văn xuôi cho học sinh Lớp 4", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docxskkn_ren_ki_nang_doc_dien_cam_cac_bai_van_xuoi_cho_hoc_sinh.docx