SKKN Lựa chọn chi tiết tiêu biểu trong giảng dạy bài kí Cô Tô
Bút kí cũng là một loại hình kí .Nếu như tuỳ bút nghiêng về tính trữ tình (thể hiện tình cảm của người viết ) thì bút kí nghiêng về ghi chép phản ánh hiện thực.Tuy nhiên đến với một bút kí , người đọc nên quan tâm đến cả hai yếu tố cơ bản; hiện thực khách quan được ghi chép trong một bài bút kí và tư tưởng tình cảm hình ảnh chủ quan của nhà văn .Trong bút kí Cô Tô nếu chỉ chủ ý đến thiên nhiên biển đảo thì ta mới cảm được một nửa của sự thú vị. Còn phải thấy đằng sau bức tranh thiên nhiên kì thù ấy hình tượng một nhà văn đam ,say sưa với việc khám phá cái đẹp .Đó chính là nhà văn Nguyễn Tuân được thể hiện đằng sau từng câu chữ của văn chương.
I.ĐẶT VẤN ĐỀ
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Một trong những thể loại được đưa vào sách Ngữ Văn mới khá nhiều là thể
ký: Chỉ riêng ở sách giáo khoa Ngữ Văn 6 - tập 2 đã có 5 tác phẩm. Học sinh lớp
6 là đối tượng còn non nớt ngây thơ. Một bài ca dao, một câu chuyện cổ có lẽ lôi
cuốn hấp dẫn các em dễ dàng hơn là những trang ký ngồn ngộn sự sống. Đó
chưa kể những bài ký nặng về chất chính luận, thiên về sự kiện, quả là một thử
thách đối với các em. Vậy làm thế nào để các em tiếp nhận với những bài ký
một cách hứng thú, phát hiện ra được nét riêng, hấp dẫn ở mỗi tác phẩm là điều
trăn trở khi tôi dạy thể loại này cho đối tượng lớp 6.
Với những băn khoăn trên tôi đã cố gắng khai thác các cách tiếp cận
những bài ký khác nhau. Cùng thể loại nhưng bài thì thiện về ký sự( sự việc),
bài thì thiên về cảm xúc( tuỳ bút), bài lại thiên về chất chính luận( Lòng yêu
nước), bài lại thiên về thuyết minh (Cây tre Việt Nam), bài ký mở đầu cho chuỗi
tác phẩm ấy là "Cô Tô" của Nguyễn Tuân.
- Trong thực tế dự giờ của một số đồng nghiệp, tôi thấy có một số người
dạy chưa đúng thể loại, dạy ký mà chẳng khác gì một bài văn tả cảnh. Số khác
lại quá nặmg về thể loại- bài dạy trở nên khô khan nặng nề, học sinh chán học,
nhất lạilà học sinh lớp 6 còn ngây thơ chưa có bản lĩnh trong việc tiếp nhận một
thể loại văn học mới lạ so với cấp I mà cá em vừa trải qua.
- Mặt khác, với xu hương đổi mới theo hướng tích hợp hiện nay, trong
những văn bản ký ta vẫn có thể khai thác những điều thú vị nếu đi sâu tìm hiểu
(yếu tố miêu tả, yếu tố biểu cảm...). Và văn bản "Cô Tô" mà tôi lựa chọn để thực
hiện đề tài sau đây đã có những đặc điểm ấy.
Trong khi đó thì qua thực tế giảng dạy và khảo sát sách giáo khoa, sách
giáo viên và một số tài liệu tôi nhận thấy có nhiều điểm của bài ký chưa được
khai thác hết , ví dụ: Sách giáo khoa có yêu cầu và hướng dẫn học sinh khai
thác chủ yếu vào cảnh đẹp thiên nhiên, cảnh sinh hoạt và lao động của người
dân trên dảo, chứ không khắc sâu cái thời điểm diễn ra những yếu tố ấy: đó là
khi cơn bão vừa đi qua.
Đó là chưa kể cuốn Thiết kế bài giảng Ngữ Văn của Nguyễn Văn Đường
- Hoàng Dân lại viết quá sơ sài.
Ngay cả trong cuốn Bình giảng Ngữ Văn 6 cũng đã viết khá hay về bài
này vẫn còn bỏ qua những hình ảnh đặc sắc trong bài mà theo tôi là Nguyễn
Tuân đã có dụng ý đưa vào.
1
Với những lý do trên đây, tôi đã chọn đề tài “Lựa chọn chi tiết tiêu biểu
trong giảng dạy bài kí Cô Tô”
II.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1.Cơ sở lý luận
Bút kí cũng là một loại hình kí .Nếu như tuỳ bút nghiêng về tính trữ tình (thể
hiện tình cảm của người viết ) thì bút kí nghiêng về ghi chép phản ánh hiện thực
.Tuy nhiên đến với một bút kí , người đọc nên quan tâm đến cả hai yếu tố cơ bản
;hiện thực khách quan được ghi chép trong một bài bút kí và tư tưởng tình cảm
hình ảnh chủ quan của nhà văn .Trong bút kí Cô Tô nếu chỉ chủ ý đến thiên
nhiên biển đảo thì ta mới cảm được một nửa của sự thú vị. Còn phải thấy đằng
sau bức tranh thiên nhiên kì thù ấy hình tượng một nhà văn đam ,say sưa với
việc khám phá cái đẹp .Đó chính là nhà văn Nguyễn Tuân được thể hiện đằng
sau từng câu chữ của văn chương.
Cô Tô là một bài kí thu hoạch nhân chuyến đi thực tế quần đảo này, đã thể
hiện nhiều nét tài năng ngôn ngữ văn chương của Nguyễn Tuân .Trích đoạn
trong sách giáo khoa ngữ văn 6 nằm ở phần cuối của bài kí ,miêu tả vẻ tươi đẹp
của thiên nhiên con người Cô Tô sau cơn bão.
Với đề tài này, tôi muốn trình bày những nhận thức chung của bản thân về
phương pháp dạy bài Cô Tô và sau đó trình bày cụ thể hướng khai thác hai tiết
dạy bài ký Cô Tô với một số phát hiện ngoài những gì mà các tài liệu giảng dạy
đã có.Ngoài ra đề tài còn trình bày các thao tác trắc nghiệm, kiểm tra để đánh
giá thông tin và xử lý kết quả của đề tài.
2. Cơ sở thực tiễn:
Dạy thể kí là một việc hết sức khó khăn nhất là đối với đối tượng là học sinh
lớp 6 các em còn rất non nớt , khả năng cảm thụ của các em đối với tác phẩm
thể loại còn rất hạn chế. Đối với tác phẩm kí của Nguyễn Tuân một nhà văn
đánh giá là bậc thầy của nghệ thuật ngôn từ thì để tiếp nhận lại càng khó. Vì vậy
trong khuôn khổ đề tài sáng kiến kinh nghiệm này tôi chỉ lựa chọn những chi
tiết nghệ thuật tiêu biểu trong văn bản kí Cô Tô gần gũi với học sinh lớp 6 để
khai thác, nhằm giúp học sinh cảm nhận được hết những dụng ý nghệ thuật của
tác giả, đồng thời cảm nhận được cái hay cái đẹp trong nghệ thuật ngôn từ của
Nguyễn Tuân.
3.Đối tượng phạm vi đề tài:
3.1. Đối tượng:
Học sinh khối 6, đặc biệt là hai lớp 6A mà tôi trực tiếp giảng dạy năm học
2015-2016
3.2. Phạm vi nghiên cứu
2
Lựa chọn chi tiết tiêu biểu để dạy văn bản kí Cô Tô của Nguyễn Tuân
4.Phương pháp :
4.1Phương pháp nghiên cứu:
Đọc - tìm hiểu tham khảo các taì liệu có liên quan đến bài học theo tinh thần
cải cách mới: tìm hiểu ưu, nhược điểm từ đó xây dựng một cách dạy cho bài ký.
Trao đổi kinh nghiệm giảng dạy thể kí với các đồng nghiệp trong tổ.
4.2 Phương pháp thực nghiệm:
-Qua thực tế giảng dạy những lớp 6 năm học trước và lớp 6A năm học này
-Qua thực tiễn kiểm tra khả năng tiếp thu bài của học sinh.
- Thảo luận. góp ý xây dựng giờ dạy của học sinh trong các lớp tôi giảng
dạy.
5.Các biện pháp đã tiến hành:
5.1Xác định mục tiêu bài học :
- Đây là một đoạn trích từ thiên ký dài cùng tên của Nguyễn Tuân. Sách
giáo viên, sách thiết kế đã xác định được mục tiêu cần đạt cảu bài dạy là: Cho
học sinh cảm nhận được vẻ đẹp sinh động, sáng của bức tranh thiên nhiên và đời
sống con người ở vùng đảo Cô Tô được miêu tả trong bài văn.
-Thấy được nghệ thụât miêu tả và tài năng sử dụng ngôn ngữ điêu luyện
của tác giả.
Theo tôi vê mục tiêu bài học, cần lưu ý thêm hai vấn đề nữa:
+ Đây là vẻ đẹp của thiên nhiên và cuộc sống sinh hoạt của con người Cô
Tô sau bão.
+ Rèn kĩ năng đọc cảm thụ, hiểu rõ hơn về thể kí cho học sinh
+ Tích hợp với phân môn Tập làm văn, đặc biệt phần văn miêu tả cảnh
+ phát triển năng lực của học sinh : năng lực thẩm mĩ, phản biện, hợp
tác...
5.2 Lựa chọn chi tiết tiêu biểu để khai thác:
1. Từ mục tiêu trên đây tôi thấy cần phải bổ sung thêm về một số nội dung
cần khai thác như sau:
- Nhìn chung ở các tài liệu tham khảo và sách giáo viên như đã nói ở trên
tôi thấy hầu hết đã xác định đúng trọng tâm của bài ký, làm rõ được các vấn đề:
- Về nội dung:
+ Cảnh Cô Tô trong sáng, tinh khôi sau trận bão.
+ Cảnh mặt trời mọc tuyệt đẹp rực rỡ tráng lệ.
+ Cảnh sinh hoạt vừa khẩn trương, tấp nập, vừa thanh bình.
- Về nghệ thuật:
3
+ Thấy được tài năng qua sát, miêu tả.
+ Ngôn ngữ chính xác, điêu luyện, tinh tế độc đáo của tác giả.
Từ đó thấy được tình yêu, sự gắn bó của tác giả với một vùng biển đảo của Tổ
quốc.
* Tuy nhiên theo tôi, ở bài ký này, ngoài những nội dung trên, chúng
tacòn phải lưu ý dẫn dắt học sinh vấn đề sau: toàn bộ bức tranh thiên nhiên và
sinh hoạt cảu con người ở trên được quan sát và miêu tả, cảm nhận vào một thời
điểm đặc biệt: Sau cơn bão.
Thông thường khi cơn bão đi qua, người ta thường nhận thấy sự đổ nát,
tàn phá của nó. Riêng ở bài ký này, qua các cảm nhận của nhà văn ta không
nhận thấy điều đó; Thậm chí cảnh vật lại hiện lên như mang một sắc thái mới,
tinh khôi, quang đãng như vừa được gột rửa, thay áo mới; cảnh vật bừng lên
trong những nét đẹp đầy sức sống, như một cuộc hồi sinh kỳ diệu. Nếu chú ý
đọc kỹ tác phảm ta sẽ thấy rất nhiều câu văn, hình ảnh, tác giả đã nhấn mạnh vào
thời khắc sau bão. Ví dụ " Sau mỗi lần giông bão bao giờ bầu trời Cô Tô cũng
trong sáng như vậy..." và một loạt hình ảnh minh hoạ cho điều đó.
" Cây lại thêm xanh mượt
Nước lại lam biếc đậm đà hơn
Cát lại vàng giòn hơn nữa...
Lưới càng thêm nặng..."
Một loạt phụ từ được sử dụng: "Lại"( 3 lần), "Càng" (1 lần) để diễn tả ý
nghĩa tiếp diễn tăng tiến: Cảnh vật như ta thấy quả thật là đẹp hơn, đậm sắc hơn
nhiều khi bão vừa đi qua, cứ như là một phép màu nhiệm.
+ Ở bức tranh thứ hai: Cảnh mặt trời lên ta cũng nhận thấy điều này: Mặt
trời bừng lên trong một không gian thật mới lạ"Sau trận bão, chân trời ngấn bể
sạch như tấm kính lau hết mây hết bụi..." Dường như khi trận bão đi qua giông
tố phũ phàng mới đủ sức gột rửa để " lau" đi hết "mây, bụi" cho nên trở nên
trong veo" như một tấm kính": làm nền cho vầng thái dương xuất hiện. Phải
chăng vì thế mà "quả trứng thiên nhiên" ấy càng "hồng hào", "thăm thẳm",
"đường bệ" chẳng khác gì một "mâm lễ phẩm" tiến ra từ trong bình minh.
_ Hinh ảnh so sánh “y như một mâm lễ phẩm tiến ra từ trong bình minh để
mừng cho sự trường thọ ..trên muôn thưở biển Đông” Nguyễn Tuân đã ví cảnh
mặt trời mọc như một “mâm lễ phẩm”mà thiên nhiên ban tặng cho con người
để dâng lên thần biển uy nghiêm , “mừng cho sự trường thọ”của những người
ngư dân, cầu cho một cuộc sống an bình đối với người dân miền biển.
Bên cạnh vẻ đẹp tráng lệ của mặt trời tác giả còn điểm xuyết một số nét vẻ
bâng quơ nhưng theo tôi thật tài hoa và tinh tế. Đó là hình ảnh "Vài chiếc nhạn
4
mùa thu chao đi chao lại trên mâm bể...", "Một con hải âu bay ngang là là nhịp
cánh..."
Mùa thu - mùa của bão tố, vậy ,mà lúc này đây - mặt bỉển thật quá đỗi
bình yên. "Chiếc nhạn" - hình ảnh mỏng manh như một chiếc lá và phải nhìn từ
xa. Còn "Một con hải âu" lại nhìn từ một góc độ rất gần, nên rất rõ. Một: là
chiếc nahn mùa thu; một nữa là hải âu - là dấu hiệu của điềm lành ( vì hải âu
vốn báo hiệu sự bình yên). Chúng xuất hiện trong những động tác " chao đi
chhao lại", "là là nhịp cánh" gợi cảnh tượng bình yên biết bao; làm cho bức
tranh biển ấy vừa tĩnh lại vừa động. Những nét vẽ mỏng manh, thanh tú ấy như
một dấu hiệu để khẳng định: Cảnh vật nơi đây dường như chưa từng đi qua bão
tố, đã thật sự bình yên.
+Ở bức tranh sinh hoạt là nhộn nhịp của cảnh gánh nước, chuẩn bị cho
những chuyến ra khơi. Điểm nhìn của tác giả là từ cái giếng nước ngọt - sự sinh
hoạt hội tụ ở đây. Tác giả đã tả " Cái sinh hoạt của nó vui như một cái bến, đạm
đà mát nhẹ hơn mọi cái chợ trong đất liền..."
Ở đây ta bắt gặp một hình ảnh rất độc đáo" Lòng giếng vẫn còn rớt lại vài
cái lá cam, lá quýt của trận bão vừa rồi quăng vào..." Hình ảnh thật sống động và
thật là thú vị; sách bình giảng văn 6 đã viết:" Hình ảnh này để thừa nhận đây là
một cái giếng có thực chứ không phải trong cổ tích..." Theo tôi hình ảnh này còn
có một ý nghĩa nữa: Cái lá cam lá quýt ấy có vẻ như một nét tả bình thường
nhưng lại đầy dụng ý của tác giả: Nhờ có nó - phải có nó - những chiếc lá ấy-
mới là bằng chứng để minh chứng cho trận bão vừa đi qua. Còn nếu không, cuộc
sống nơi đây diễn ra thanh bình, khẩn trương nhộn nhịp, hối hả, dường như
không hề có dấu tích của bão tố. Sự sinh hoạt mau chóng hồi sinh ấy muốn nói
với chúng ta điều gì? Dấu vết của bão tố còn đó mà người dân đảo như đã quên
hẳn nó, nhịp sống lại mau chóng hồi sinh- phải chăng là một cánh rất khéo để
tác giả khẳng định sức sống, sự lao động hăng say trong công cuộc xây dựng
XHCN những năm 70 của người dân biển đảo Cô Tô. Mặt khác để khẳng định
sức sống của chính họ - đã từng quen với bão tố thiên nhiên, bão tố cuộc đời -
điềm tĩnh và bình thản trước nó. Điều này rất thật, rất hay và cũng giàu ý nghĩa.
Đây là những gì mà Nguyễn Tuân muốn ca ngợi khi tới vùng đất phía Đông
Bắc của Tổ quốc này để thực tế và sáng tác. Ta càng thấy rõ sức sống của quần
đảo này - một sự trân trọng và trìu mến của tác giả dành cho cảnh và người nơi
đây.
- Một hình ảnh nữa cũng cần chú ý ở đây là cảnh" Chị Châu Hoà Mãn địu
con, thấy nó dịu dàng, yên tâm như cái hình ảnh biển cả là mẹ hiền mớm ccá cho
lũ con lành...". Biển cả trong cảm nhận của nhà văn thật bao dung, hiền hậu,
5
không ai nghĩ rằng nó vừa trải qua giông tố, thịnh nộ. Lúc này đây biển thật hiền
sau cơn bão, như lòng mẹ ấp ủ cho con vậy, hình ảnh thật cụ thể mà sáng tạo đã
tô đậm cho cái không khí “đậm đà mát nhẹ” mà Nguyễn Tuân đã nhận định ở
phần đầu : “Cái giếng nước ngọt nó vui như một cái bến và đậm đà mát nhẹ hơn
mọi cái chợ trong đất liền”. Tát cả những chi tiết trên theo tôi nhà văn đã có
dụng ý miêu tả để người đọc cảm nhận sự hồi sinh kỳ diệu của thiên nhiên và
con người sau cơn bão chứ không phải là một thời điểm nào khác. Khẳng định
sức sống của con người và cuộc sống nơi đây cũng là một cách để ngợi ca công
cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Miền Bắc những năm 70; bởi vậy, những
trang ký rất thực , kể tả chuyện mà thật vô cùng lý thú và lôi cuốn người đọc.
Một điều nữa theo tôi cũng cần lưu ý là cho học sinh nhận rõ thể loại của văn
bản. Nếu không các em sẽ không phân biệt được đây là bài ký hay là bài văn
miêu tả, nhất lại là bài mở đầu cho thể loại này.
Muốn vậy, người dạy phải lưu tâm những chi tiết sau:
- "Ngày thứ năm trên đảo Cô Tô..."
- "... Ngày thứ sáu của tôi trên đảo Thanh Luân..."
- Anh hùng Châu Hoà Mãn; HTX Bắc Loan Đầu; Những địa danh: Vịnh
Bắc Bộ, Tô Bắc, Tô Trung, Tô Nam...
Những tên gọi,cách chỉ thời gian, không gian này là có tính xác thực.
Giáo viên có thể dẫn dắt học sinh để các em hiểu: Cái đẹp ấy vốn có trong cuộc
sống nhưng hoàn hảo hơn qua cách nhìn, cách cảm nhận của nhà văn, từ đó để
khái quát nên cái tài, cái tâm của tác giả.
Từ những suy nghĩ của bản thân như trên, tôi đã soạn một giáo án hoàn
chính như sau:
5.3 Giáo án minh hoạ
6
Tiết 103-104
Văn bản :
CÔ TÔ
Nguyễn Tuân
I – Mục tiêu bài học
1. Kiến thức :
a.Nội dung : Cảm nhận được vẻ đẹp sinh động, trong sáng của những
bức tranh thiên nhiên và đời sống ở vùng đảo Cô Tô .Tình cảm của tác
giả dành cho thiên nhiên và con người nơi đây.
b. Nghệ thuật : thấy được nghệ thuật và tài năng sử dụng ngôn ngữ của
Nguyễn Tuân.
2. Kĩ năng :
- Rèn kĩ năng đọc ,cảm thụ, hiểu rõ hơn về thể loại kí.
- Biết cách tổng hợp kiến thức, nêu nhận xét, đánh giá…
3. Thái độ : -Giáo dục lòng yêu mến thiên nhiên, cuộc sống, mở rộng ra
là lòng yêu nước.
4.Tích hợp :
- Tích hợp liên môn Lịch sử, Địa Lí, Giáo dục công dân, Mĩ thuật….
5.Phát triển năng lực :
- Năng lực giao tiếp Tiếng Việt ( nghe, nói,đọc, viết)
-Năng lực hợp tác , phản biện
-Năng lực cảm thụ , thẩm mĩ
+Nhận ra giá trị thẩm mỹ
+Cảm nhận rung động trước cái đẹp.
II.Phương pháp :
- Phân tích, bình giảng,đàm thoại
- Nêu vấn đề, tạo tình huống, thảo luận nhóm…
III.Sự chuẩn bị của giáo viên và học sinh ;
- Thiết kế bài giảng bằng phần mềm Power Point
- Yêu cầu học sinh soạn bài, có kiểm tra đánh giá.
IV.Bài mới
1.Vào bài mới
Hoạt động của thầy và trò
Nội dung bài học
? GV: Dựa vào chú thích () SGK trang 90 và I/ Đọc – tìm hiểu chú thích :
phần tự tìm hiểu thêm của các con về tác giả, các 1. Tác giả : (SGK/66)
con hãy giới thiệu một vài nét về tác giả Nguyễn
Tuân?
7
( Phương pháp: hoạt động nhóm
- GV nêu câu hỏi: Hãy giới thiệu một vài nét
về tác giả Nguyễn Tuân?
- Các nhóm cùng quan sát kết quả của nhau
và bổ sung ý kiến.
• Nguyễn Tuân rất giàu lòng yêu nước và
tinh thần dân tộc (yêu tiếng mẹ đẻ, yêu
những kiệt tác văn chương cổ điển, yêu
âm nhạc dân gian, yêu thiên nhiên …).
• Nguyễn Tuân rất tài hoa, ông am hiểu
nhiều ngành nghệ thuật và vận dụng sự
am hiểu đó để sáng tác văn chương rất
độc đáo.
2.Tác phẩm
• Sự nghiệp văn chương của ông để lại rất
phong phú, độc đáo và tài hoa.( Chiếu
slides một số tác phẩm chính của Nguyễn
Tuân và đoạn video clip về tác giả
Nguyễn Tuân)
- HS theo dõi đoạn video tư liệu về tác giả
Nguyễn Tuân.
- GV: Hướng dẫn HS cách đọc đoạn trích:
a. Thể loại: Kí
b. Vị trí đoạn trích: Nằm ở phần
cuối của bài kí Cô Tô.
- GV đọc 1 đoạn sau đó gọi ít nhất 2 HS đọc VB.
? GV: Con hãy nêu thể loại, vị trí của đoạn trích?
Trong bài ký rất nhiều lần tác giả kể, tả ngôi thứ
nhất, chứng tỏ điều gì?
c. Chú thích:
HS trả lời.
GV chốt kiến thức: Vị trí ấy chứng tỏ:
- Người viết có mặt khắp nơi.
- Kể, ghi chép những điều tai nghe mắt thấy.
*GV chiếu các Slides về hình ảnh các chú thích :
- Cô Tô: Giới thiệu đoạn video clip về cảnh
đảo Cô Tô.
3. Bố cục:
3 phần:
- Giã đôi:
- Đá đầu sư:
- Đoạn 1:
Từ đầu … “ở đây” → Toàn cảnh
- Ngấn bể:
8
- Hải sâm:
Cô Tô với vẻ đẹp trong sáng sau
khi trận bão đã đi qua.
- Đoạn 2:
- Cá hồng:
? GV: Theo con có thể chia văn bản Cô Tô làm
mấy phần? Nêu nội dung chính từng phần?
- HS trả lời.
“Mặt trời…nhịp cánh” → Cảnh
mặt trời mọc trên biển.
- Đoạn 3:
- GV có thể khái quát hóa bằng sơ đồ trên máy
chiếu
Còn lại. → Cảnh sinh hoạt trên
biển.
Hoạt động 3: Tìm hiểu chi tiết
Mục tiêu: HS hiểu, cảm thụ được giá trị nội
dung và nghệ thuật tác phẩm.
Phương pháp: Vấn đáp tìm tòi; thuyết trình;
đọc sáng tạo tái hiện hình tượng.
Thời gian: 20 phút.
- GV chuyển ý: Phân tích văn bản theo bố cục:
+ Tiết 103: Quang cảnh Cô Tô sau cơn bão.
+ Tiết 104: Hai phần còn lại
? GV: Bức tranh thiên nhiên Cô Tô được tác giả
ghi lại vào thời điểm nào? Vào thời điểm đó Cô
Tô có gì đặc biệt?
HS trả lời.
=> GV bình: Một thời điểm cụ thể chính xác đó
là đặc điểm của thể ký.
II/ Đọc – tìm hiểu văn bản:
Đây là một khoảnh khắc bình yên khi cơn
bão đã đi qua. Tại sao tác giả lại chọn thời điểm
này để tả về thiên nhiên Cô Tô, qua phần tìm
hiểu tiếp theo ta sẽ lý giải.
1.Toàn cảnh Cô Tô sau cơn bão:
- Thời gian:
+ Ngày thứ năm trên đảo
+ Cô Tô sau cơn bão
? GV: Tác giả đã chọn vị trí nào để quan sát và
miêu tả vẻ đẹp của đảo Cô Tô? Vị trí quan sát đó
có tác dụng như thế nào?
- Điểm nhìn quan sát: trên nóc đồn
- HS trả lời: Vị trí quan sát: trên nóc đồn.
Tác dụng: dễ bao quát toàn cảnh biển đảo Cô Tô.
? GV: Vẻ đẹp trong sáng của đảo Cô Tô sau khi
trận bão đi qua đã được miêu tả như thế nào? Con
hãy tìm các từ ngữ, hình ảnh diễn tả vẻ đẹp ấy
trong đoạn đầu của bài?
- Vẻ đẹp của đảo Cô Tô:
- HS : Bầu trời “trong sáng”, cây “xanh mượt”,
+ Trong trẻo, sáng sủa.
9
nước biển “lam biếc”, cát “vàng giòn”, cá nặng + Bầu trời cũng trong sáng.
lưới.. + Cây cối xanh mượt,
?GV: Con có nhận xét gì về việc sử dụng từ ngữ + Nước biển lam biếc, đậm đà.
(đặc biệt là các tính từ), hình ảnh diễn tả vẻ đẹp + Cát vàng giòn.
của đảo Cô Tô?
+ Cá nặng lưới.
- Hs nêu nhận xét:
?GV: Tác giả còn sử dụng biện pháp tu từ nào
nữa? Có gì độc đáo trong cách sử dụng ấy?
HS phát hiện: Ẩn dụ “vàng giòn”: Ẩn dụ chuyển
đổi cảm giác. → Cảm nhận được sắc vàng - khô
đến độ giòn của cát - một màu sắc ấm nóng và
khoẻ khoắn.
?GV: Thông thường khi cơn bão đi qua, người ta
thường nhận thấy sự đổ nát, tàn phá của nó. Ở bài
ký này, qua các cảm nhận của nhà văn con có
nhận thấy điều đó không?
- Hs trả lời.
?GV: Qua việc miêu tả của tác giả con hình dung
như thế nào về Cô Tô sau trận bão
- HS nêu cảm nhận.
- GV bình chốt: Cách dùng từ (tính từ, cụm tính từ)
có tính gợi tả cao kết hợp các từ chỉ mức độ để diễn
tả ý nghĩa tiếp diễn tăng tiến làm cho người đọc
hình dung được khung cảnh bao la và vẻ đẹp tươi
sáng, của vùng đảo Cô Tô Thông thường khi cơn
.
bão đi qua, người ta thường nhận thấy sự đổ nát,
tàn phá của nó. Riêng ở bài ký này, qua các cảm
nhận của nhà văn ta không nhận thấy điều đó;
Thậm chí cảnh vật lại hiện lên như mang một
sắc thái mới, tinh khôi, quang đãng như vừa
được gột rửa, thay áo mới; cảnh vật bừng lên
trong những nét đẹp đầy sức sống, như một
cuộc hồi sinh kỳ diệu cho ta thấy Cô Tô đã đẹp
nhưng giờ đây - sau cơn bão - nó lại hồi sinh
nhanh chóng trong một sức sống mãnh liệt, cứ
như là một phép màu nhiệm.
=> Thời khắc mà những sắc màu thiên nhiên thể
10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "SKKN Lựa chọn chi tiết tiêu biểu trong giảng dạy bài kí Cô Tô", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- skkn_lua_chon_chi_tiet_tieu_bieu_trong_giang_day_bai_ki_co_t.pdf