SKKN Nâng cao hiệu quả của công tác chủ nhiệm thông qua việc xây dựng nề nếp cho học sinh
Nhằm góp phần nâng cao chất lượng quản lí và hiệu quả trong công tác giảng dạy, tạo nên sự đồng bộ và tác động tích cực đến việc xây dựng mục tiêu “Trường học thân thiện, học sinh tích cực” như chúng ta đã biết, hoạt động của giáo viên chủ nhiệm về bản chất là một trong những hoạt động sáng tạo nhất trong quá trình dạy học, đó là hoạt động tìm hiểu, nghiên cứu để xây dựng cho toàn bộ học sinh của lớp mình chủ nhiệm có được nhận thức đúng đắn về các nhiệm vụ của người học sinh để giúp các em phát triển một cách toàn diện song song với đó xây dựng đội ngũ tự quản (cán bộ lớp) có năng lực điều hành các hoạt động của lớp; xây dựng kế hoạch phát triển tập thể học sinh; động viên; khuyến khích tạo nên sự đoàn kết thống nhất trong lớp tạo điều kiện để phát huy ý thức tự quản, hình thành và phát triển nhân cách của học sinh. Đây vừa là trách nhiệm vừa thể hiện được tình người trong mối quan hệ “Thầy – Trò”. Do vậy để giáo dục được học sinh về mọi mặt không chỉ cần sự quan tâm, tinh thần trách nhiệm của giáo viên chủ nhiệm mà cần phải có những phương pháp thích hợp phù hợp với điều kiện hiện nay.
N©ng cao hiÖu qu¶ cña c«ng t¸c chñ nhiÖm th«ng qua viÖc x©y dùng nÒ nÕp cho häc sinh.
MỤC LỤC
Nội dung
Trang
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lí luận
2
3
II. Cơ sở thực tiễn
4
III. Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu
IV. Phương pháp nghiên cứu
6
6
V. Phạm vi nghiên cứu
7
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
8
I. Mục tiêu giáo dục học sinh các trường trung học cơ sở
II. Công tác chủ nhiệm
8
9
III. Một số giải pháp thực hiện nhằm xây dựng nề nếp cho học sinh
IV. Kết quả kiểm nghiệm đề tài
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. Kết luận
16
39
42
42
43
45
II. Đề xuất, kiến nghị
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Page 1 of 46
N©ng cao hiÖu qu¶ cña c«ng t¸c chñ nhiÖm th«ng qua viÖc x©y dùng nÒ nÕp cho häc sinh.
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Sự nghiệp giáo dục có vị trí quan trọng trong chiến lược xây dựng con người, chiến
lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Đảng và Nhà nước xác định mục tiêu của đổi
mới lần này là: Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào
tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập
của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm
năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống
tốt và làm việc hiệu quả.
Nhiệm vụ của Ngành giáo dục và đào tạo là đào tạo ra các thế hệ công dân mới, có
đầy đủ tài năng, phẩm chất và bản lĩnh để đưa đất nước ra khỏi tình trạng đói nghèo, tiến
lên đuổi kịp trào lưu phát triển của thế giới. Không thể không đầu tư thỏa đáng cho nhân tố
con người, nhân tố hàng đầu của lực lượng sản xuất. Không thể xây dựng được quan hệ
mới xã hội chủ nghĩa nếu không nâng cao trình độ học vấn, trình độ tổ chức và quản lý cho
cán bộ và nhân dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cơ bản, tạo tiền đề phát triển kinh tế xã
hội. Thực tiễn đã chỉ ra rằng không có quốc gia nào muốn phát triển kinh tế lại ít đầu tư
cho giáo dục. Cuộc chạy đua phát triển kinh tế của thế giới hiện nay là cuộc chạy đua khoa
học và công nghệ, chạy đua về giáo dục và đào tạo, chạy đua về nâng cao chất lượng
nguồn lao động.
Đối với giáo dục phổ thông nhiệm vụ được đặt ra cho bậc học THCS là “…Tiếp tục
phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kĩ năng cơ bản của nhân
cách con người Việt Nam Xã hội chủ nghĩa có trình độ học vấn THCS và những hiểu biết
ban đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học THPT, THCN, học nghề hoặc đi vào
cuộc sống”. Vấn đề đặt ra là trường THCS có nhiệm vụ giáo dục học sinh phát triển trở
thành con người hữu ích cho xã hội và trước tiên là phát triển về mặt nhân cách. Đây là
nhiệm vụ hết sức nặng nề của lực lượng giáo dục nói chung và của giáo viên chủ nhiệm
(GVCN) nói riêng trong trường THCS.
Trong thực tế, có những giáo viên chủ nhiệm đã tốn rất nhiều công sức nhưng chưa
đạt kết quả như mong muốn, học sinh vẫn chưa ngoan, nề nếp lớp chưa tốt, ý thức tự giác
và tinh thần học tập của học sinh chưa cao. Ở đâu đó vẫn còn có những giáo viên bắt phạt
học trò bằng nhiều hình thức như chép phạt, bắt học sinh đứng phạt hàng loạt trên bảng
trong giờ dạy, đuổi học sinh ra khỏi lớp, dùng roi đánh học trò… mà học sinh vẫn hư, thậm
chí còn vô lễ hoặc coi thường thầy cô giáo. Có giáo viên đã đưa ra những hình thức kỉ luật
khắt khe lạnh lùng, khép học sinh vào nề nếp hoặc bỏ ra rất nhiều thời gian để la mắng,
thậm chí còn dùng đến những lời lẽ gay gắt đối với các em, để rồi giờ học trở thành áp lực
vô cùng nặng nề đối với học sinh và thầy cô trở thành đối tượng để học sinh sợ hãi, xa
Page 2 of 46
N©ng cao hiÖu qu¶ cña c«ng t¸c chñ nhiÖm th«ng qua viÖc x©y dùng nÒ nÕp cho häc sinh.
lánh. Vậy làm thế nào để có thể tổ chức, xây dựng được một lớp học vừa có nề nếp tự
quản tốt vừa là một tập thể học sinh đoàn kết, có tinh thần học tập và tham gia các hoạt
động của nhà trường một cách tự giác, mà không làm mất đi sự hồn nhiên, trong sáng của
các em. Để mỗi ngày đến trường của các em thực sự là một ngày vui và thầy cô thực sự là
người được các em yêu quý trân trọng. Đó là điều trăn trở chắc chắn không phải của riêng
tôi mà luôn là nỗi trăn trở của mỗi thầy cô giáo chủ nhiệm. Với cá nhân tôi cho rằng: để có
được một tập thể lớp vừa có thành tích về học tập vừa có ý thức kỉ luật tốt thì một trong
những công việc rất quan trọng đó là xây dựng được ý thức tự quản cho học sinh. Tại vì
một lớp có tình thần tự quản thì mỗi học sinh sẽ luôn chủ động, tích cực trong việc thực
hiện các nội qui, qui định của lớp của nhà trường, song song với đó các em cũng sẽ có ý
thức trong việc học tập của mình tạo nên một tập thể lớp gắn bó, biết giúp nhau trong mọi
hoạt động và luôn hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao. Bản thân tôi là một giáo viên
chủ nhiệm có lòng yêu nghề, yêu trẻ nên tôi luôn trăn trở làm thế nào để xây dựng một lớp
học ở đó học sinh luôn có ý thức tự giác, năng động, có trách nhiệm với công việc để tập
thể lớp luôn đoàn kết gắn bó và cùng giúp nhau tiến bộ cả về tu dưỡng đạo đức cũng như
về học tập nên tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: “Nâng cao hiệu quả công tác chủ nhiệm
thông qua việc xây dựng nề nếp cho học sinh”.
I. Cơ sở lí luận
Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng Khóa VIII đã
nhấn mạnh: “Thực sự coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Nhận thức sâu sắc
giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là nhân tố quyết định tăng trưởng
kinh tế và phát triển xã hội, đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư cho phát triển”. Như
vậy, giáo dục có ý nghĩa to lớn đối với toàn bộ đời sống vật chất, đời sống tinh thần của xã
hội. Phát triển giáo dục là cơ sở để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội, chiến
lược phát triển con người của Đảng và Nhà nước ta. Chính vì vậy, trong “Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội”, Đảng ta đã khẳng định quan
điểm cơ bản để xây dựng và phát triển sự nghiệp giáo dục là: “Giáo dục và đào tạo gắn
liền với sự nghiệp phát triển kinh tế, phát triển khoa học, kỹ thuật, xây dựng nền văn hóa
mới, con người mới”.
Bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, giáo dục và
đào tạo trở thành một nhân tố có ý nghĩa quyết định tốc độ và quy mô của sự phát triển.
Page 3 of 46
N©ng cao hiÖu qu¶ cña c«ng t¸c chñ nhiÖm th«ng qua viÖc x©y dùng nÒ nÕp cho häc sinh.
Trong giai đoạn hiện nay, việc nâng cao chất lượng giáo dục luôn là mục tiêu phấn
đấu của toàn xã hội, đó chính là nhiệm vụ hàng đầu đặt ra với các nhà trường. Theo nghị
quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương II khóa VIII của Đảng, việc nâng cao chất
lượng giảng dạy trong các bậc học là điều hết sức cần thiết. Yêu cầu đặt ra cho các hoạt
động dạy học trong nhà trường phổ thông là rất lớn, cần trang bị cho học sinh hệ thống
kiến thực khoa học cơ bản, hiện đại, hình thành và rèn luyện những kỹ năng vận dụng tri
thức vào cuộc sống, bằng cách đó phát triển nhân cách toàn diện cho học sinh, đáp ứng
được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Để đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
đáp ứng yêu cầu của xã hội, Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa
IX tại Đại hội đại biểu lần thứ X của Đảng đã ghi rõ: “Nâng cao chất lượng giáo dục toàn
diện, đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý nội dung, phương pháp dạy và học; thực hiện
“chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa”, chấn hưng nền giáo dục Việt Nam”.
Nhằm góp phần nâng cao chất lượng quản lí và hiệu quả trong công tác giảng dạy,
tạo nên sự đồng bộ và tác động tích cực đến việc xây dựng mục tiêu “Trường học thân
thiện, học sinh tích cực” như chúng ta đã biết, hoạt động của giáo viên chủ nhiệm về bản
chất là một trong những hoạt động sáng tạo nhất trong quá trình dạy học, đó là hoạt động
tìm hiểu, nghiên cứu để xây dựng cho toàn bộ học sinh của lớp mình chủ nhiệm có được
nhận thức đúng đắn về các nhiệm vụ của người học sinh để giúp các em phát triển một
cách toàn diện song song với đó xây dựng đội ngũ tự quản (cán bộ lớp) có năng lực điều
hành các hoạt động của lớp; xây dựng kế hoạch phát triển tập thể học sinh; động viên;
khuyến khích tạo nên sự đoàn kết thống nhất trong lớp tạo điều kiện để phát huy ý thức tự
quản, hình thành và phát triển nhân cách của học sinh. Đây vừa là trách nhiệm vừa thể hiện
được tình người trong mối quan hệ “Thầy – Trò”. Do vậy để giáo dục được học sinh về
mọi mặt không chỉ cần sự quan tâm, tinh thần trách nhiệm của giáo viên chủ nhiệm mà cần
phải có những phương pháp thích hợp phù hợp với điều kiện hiện nay.
II. Cơ sở thực tiễn
1. Thuận lợi:
- Nhà trường luôn nhận được sự quan tâm, giúp đỡ tạo điều kiện của Đảng bộ, chính
quyền, các cơ quan đoàn thể ở địa phương trong việc giáo dục học sinh.
- Ban Giám hiệu nhà trường luôn coi trọng việc giáo dục đạo đức cũng như các nền
nếp của học sinh, do vậy việc phân công giáo viên chủ nhiệm vào từng khối lớp luôn được
Ban giám hiệu quan tâm đúng mức.
- Đội ngũ GVCN của trường đa số đều là những giáo viên trẻ, nhiệt tình, tâm huyết
với công tác chủ nhiệm.
Page 4 of 46
N©ng cao hiÖu qu¶ cña c«ng t¸c chñ nhiÖm th«ng qua viÖc x©y dùng nÒ nÕp cho häc sinh.
- GVCN phối hợp rất tốt với giáo viên bộ môn và giáo viên Tổng phụ trách, các tổ
chức Đội Thiếu niên Tiền Phong Hồ Chí Minh, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh
trong việc giáo dục học sinh.
- Ban đại diện Hội Cha mẹ học sinh luôn luôn phối hợp tốt với nhà trường và GVCN
trong việc giáo dục học sinh.
- Nhiều phụ huynh quan tâm và rèn cho con từ việc học cho đến nề nếp kỉ luật, cũng
như thường xuyên trao đổi với GVCN để biết thông tin đa chiều của con.
- Bản thân tôi là GVCN có gần 20 năm kinh nghiệm được tiếp xúc với rất nhiều đối
tượng học sinh nên cũng dễ nắm được đặc điểm tâm lý của các em.
2. Khó khăn:
- Trường nằm trên địa bàn dân cư khá phức tạp, phần lớn là con nhà lao động bố mẹ
ít có điều kiện quan tâm đến việc học hành của con em.
- Rất nhiều học sinh có hoàn cảnh gia đình đặc biệt: bố mẹ bỏ nhau, hoặc không có
bố mẹ phải ở với người thân, không có ai quan tâm dạy dỗ…
- Các em học sinh khi đến trường không phải chỉ là học văn hóa mà các em còn được
học về đạo đức, về cách làm người. Trong tập thể lớp không phải tất cả đều có tính cách
giống nhau mà mỗi em có một tính cách riêng. Những em học khá giỏi thường là những
em ngoan, có ý thức, còn những em chưa ngoan thường học yếu, ý thức kỉ luật chưa cao.
Vì vậy các em thường khó gần nhau vì mặc cảm hoặc có nhiều em tỏ thái độ bất cần, điều
đó có thể thấy rất rõ trong giờ học, hoặc trong các giờ tự quản, giờ sinh hoạt …sự tách biệt
giữa các em là rất rõ. Để thu hẹp được khoảng cách này đòi hỏi GVCN phải có những
phương pháp thích hợp để tạo điều kiện cho cán bộ lớp và các bạn có sự hòa nhập, các bạn
khá, giỏi thì hướng dẫn các bạn học yếu hơn cùng học tập, làm cho mối quan hệ giữa các
thành viên trong lớp thêm gắn bó. Do đó đòi hỏi người GVCN phải luôn quan tâm đến lớp,
có kế hoạch cụ thể cho từng tuần, tháng đồng thời có kế hoạch bồi dưỡng, giúp đỡ, tập
huấn cho các em trong đội ngũ tự quản (cán bộ lớp) những vấn đề về quản lí như thế nào?
Tự tổ chức các hoạt động sao cho có hiệu quả.
Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn trên, với tâm niệm dạy dỗ giáo dục cho các
em trở thành những con người hữu ích cho xã hội để xứng đáng với những hình ảnh đẹp
Page 5 of 46
N©ng cao hiÖu qu¶ cña c«ng t¸c chñ nhiÖm th«ng qua viÖc x©y dùng nÒ nÕp cho häc sinh.
mà xã hội ban tặng như Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói: “Nghề dạy học là nghề cao
quý nhất trong tất cả các nghề cao quý vì nó sáng tạo ra những con người sáng tạo.” cũng
như nhận thức rõ được vai trò trách nhiệm của giáo viên chủ nhiệm và mong muốn đóng
góp một phần nhỏ của mình để nâng cao hiệu quả của công tác chủ nhiệm, tôi đã mạnh dạn
chọn đề tài: “Nâng cao hiệu quả của công tác chủ nhiệm thông qua việc xây dựng nề nếp
cho học sinh”
Qua đây, tôi cũng mong muốn nhận được sự đóng góp từ Ban giám khảo, Ban
giám hiệu và các đồng nghiệp để đề tài ngày càng hoàn thiện và trở thành một người
GVCN tốt. Bên cạnh đó tôi cũng mong muốn với những kinh nghiệm của mình có thể bạn
bè đồng nghiệp tham khảo.
III. Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu
1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của tôi là các em học sinh của lớp do tôi đã chủ nhiệm.
Do sự phân công của nhà trường, năm học 2011 – 2012 tôi đã chủ nhiệm lớp 8D đến năm
học 2012 – 2013 tôi tiếp tục chủ nhiệm các em lên lớp 9D, năm học 2013 – 2014 tôi chủ
nhiệm lớp 9B. Cho nên trong phạm vi của đề tài này tôi sẽ khảo sát dựa trên kết quả giáo
dục đạo đức của lớp đã chủ nhiệm tại trường của tôi.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ đặt ra là phải hiểu được rõ các vấn đề về công tác chủ nhiệm như: khái
niệm công tác chủ nhiệm, vai trò, chức năng của GVCN... đồng thời để nâng cao hiệu quả
của công tác chủ nhiệm góp phần hoàn thiện nhân cách của học sinh ở trường THCS thì
GVCN cần biết được các mục tiêu cần giáo dục học sinh ở bậc THCS là gì, cần những
biện pháp nào để giúp học sinh đạt được mục tiêu đó . Muốn làm được như vậy cần đề ra
những biện pháp hiệu quả và cụ thể như thế nào?
IV. Phương pháp nghiên cứu
1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Phân tích sách báo, tài liệu nghiên cứu, tạp chí liên quan tới đề tài. Phân loại, hệ thống
hóa, khái quát hóa các nội dung về lý luận giáo dục, thực tiễn giáo dục.
Page 6 of 46
N©ng cao hiÖu qu¶ cña c«ng t¸c chñ nhiÖm th«ng qua viÖc x©y dùng nÒ nÕp cho häc sinh.
Nghiên cứu các văn bản pháp quy, những quy định của ngành có liên quan đến công
tác chủ nhiệm lớp.
2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
2.1. Phương pháp quan sát
Quan sát thu thập dữ liệu từ thực tiễn công tác chủ nhiệm lớp và thực tiễn quản lý
công tác chủ nhiệm lớp.
2.2. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi
Xây dựng các phiếu điều tra, bằng hệ thống câu hỏi để khảo sát các đối tượng: cán bộ
quản lý, giáo viên chủ nhiệm lớp, tổ trưởng chuyên môn và một số đối tượng có liên quan.
2.3. Phương pháp phân tích và tổng kết kinh nghiệm giáo dục
- Tổng kết kinh nghiệm công tác chủ nhiệm lớp từ những giáo viên chủ nhiệm lớp và
kinh nghiệm quản lý công tác chủ nhiệm lớp từ những người đã kinh qua công tác quản lý
giáo dục và đặc biệt là những người đang đương chức.
- Rút kinh nghiệm từ những lần chủ nhiệm trước đây.
V. Phạm vi nghiên cứu
- Đề tài nghiên cứu: Nâng cao hiệu quả của công tác chủ nhiệm thông qua việc xây
dựng nề nếp cho học sinh.
- Phạm vi nghiên cứu: học sinh lớp 8D (Từ năm học 2011 – 2013), học sinh lớp 9B
(năm học 2013 – 2014) do tôi làm chủ nhiệm.
Page 7 of 46
N©ng cao hiÖu qu¶ cña c«ng t¸c chñ nhiÖm th«ng qua viÖc x©y dùng nÒ nÕp cho häc sinh.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Trước khi nghiên cứu về vai trò của giáo viên chủ nhiệm, thì chúng ta sẽ cùng
nghiên cứu các mục tiêu giáo dục cụ thể đối với học sinh THCS là gì?
I. Mục tiêu giáo dục toàn diện cho học sinh các trường trung học
I.1. Khỏe mạnh về thể lực và tinh thần
Như chúng ta đã biết sản phẩm của giáo dục là con người, vì vậy mục tiêu của bậc
THCS là xã hội sẽ có một công dân tương lai mạnh khỏe về thể lực và tinh thần. Đồng
thời đó cũng là điều kiện tiên quyết của một tuổi thơ và tuổi vị thành niên tươi vui và
hạnh phúc. Học sinh cấp THCS được chăm sóc chu đáo và rèn luyện thường xuyên để
phát triển cân đối về thể chất và phát huy tối đa về năng lực tư duy cũng như một đời
sống tinh thần phong phú.
I.2. Sống lành mạnh và tự tin
Học sinh cấp THCS được rèn luyện một tinh thần tự tin và tự trọng, biết tôn trọng
bạn bè và kính trọng thầy cô. Nhà trường, thầy cô giáo luôn đảm bảo sự công bằng giữa
các học sinh, bất kể hoàn cảnh gia đình và những đặc điểm cá nhân khác nhau, khuyến
khích học sinh quan tâm, chia sẻ, xây dựng và duy trì một tình bạn chan hòa, thân ái.
I.3. Yêu sự học suốt đời
Nhà trường chú trọng phát triển trong mỗi học sinh một tình yêu đối với việc học -
ham hiểu biết, chủ động không ngừng vươn lên tìm tòi kiến thức mới, rèn luyện những kỹ
năng mới - làm nền tảng cho niềm say mê học suốt đời. Đối với học sinh cấp THCS, học
trước hết không phải là nghĩa vụ, trách nhiệm đối với cha mẹ, thầy cô, mà chính là một
việc làm tự nguyện, vui thích, một điều may mắn và một niềm hạnh phúc của mỗi một học
trò.
I.4. Được trang bị đầy đủ kỹ năng, phương pháp và ý chí làm chủ tri thức mới
Bên cạnh việc trao truyền kiến thức, nhà trường đặc biệt chú trọng việc đào tạo phương
pháp tư duy, các kỹ năng thao tác, và một ý chí chiếm lĩnh, làm chủ những tri thức mới, đảm
bảo cho học sinh vững tin trước mọi thách thức và đổi thay nhanh chóng của thời đại.phương
pháp tư duy đúng đắn và một bản lĩnh vững vàng là những hành trang quan trọng nhất nhà
trường chuẩn bị cho học sinh bước vào đời.
Page 8 of 46
N©ng cao hiÖu qu¶ cña c«ng t¸c chñ nhiÖm th«ng qua viÖc x©y dùng nÒ nÕp cho häc sinh.
I.5. Trân trọng các giá trị truyền thống và đón nhận các giá trị thời đại
Với sự hội nhập và phát triển của Việt Nam với thế giới thì càng đòi hỏi nhà trường
cũng như GVCN phải chú trọng giáo dục đạo đức nhân cách cho mỗi học sinh, giúp các
em biết cách sống hài hòa giữa bản thân và gia đình, xã hội. Không chỉ giữ vững những giá
trị truyền thống phương Đông như nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, học sinh còn được khuyến khích
đón nhận những giá trị của thời đại và nhân loại như tự do, dân chủ, bình đằng, công
bằng, bác ái và yêu chuộng hòa bình. Học sinh được chuẩn bị toàn diện về nhân cách để
trở thành không chỉ một người có ích cho xã hội mà còn là chủ thể của xã hội đó.
II. Công tác chủ nhiệm:
Để làm tốt công tác chủ nhiệm thì mỗi một GVCN lớp cần nắm rõ các lí luận về
lĩnh vực này, có như thế thì mỗi việc làm của GVCN mới đi đúng hướng và đảm bảo tính
pháp lí và khoa học trong công việc.
1. Khái niệm công tác chủ nhiệm lớp
Trong hệ thống tổ chức của các trường phổ thông, đơn vị cơ bản được tổ chức để
giảng dạy và giáo dục HS là lớp học. Hình thức tổ chức dạy học, giáo dục theo lớp được
hình thành từ thế kỉ XVI do nhà giáo dục Tiệp Khắc Comenxki đề xướng. Để quản lý lớp
học, nhà trường cử ra một trong những giáo viên đang giảng dạy làm GVCN lớp. GVCN
được Hiệu trưởng lựa chọn từ những GV có kinh nghiệm giáo dục, có uy tín trong học sinh,
được Hội đồng giáo dục nhà trường nhất trí phân công làm chủ nhiệm các lớp học xác định
để thực hiện mục tiêu giáo dục. Như vậy khi nói đến người GVCN lớp là đề cập đến vị trí,
vai trò, chức năng của người làm công tác chủ nhiệm lớp, còn nói công tác chủ nhiệm lớp
trong nhà trường nói chung và trường THCS nói riêng là đề cập đến những nhiệm vụ, nội
dung công việc mà người GVCN lớp phải làm, cần làm và nên làm.
2. Vị trí, vai trò, chức năng nhiệm vụ của người giáo viên chủ nhiệm lớp trong nhà trường
phổ thông
2.1. Vị trí và vai trò của người giáo viên chủ nhiệm lớp
GVCN là thành viên của tập thể sư phạm và hội đồng sư phạm, là người thay mặt
Hiệu trưởng, hội đồng nhà trường và CMHS quản lý và chịu trách nhiệm về chất lượng
Page 9 of 46
N©ng cao hiÖu qu¶ cña c«ng t¸c chñ nhiÖm th«ng qua viÖc x©y dùng nÒ nÕp cho häc sinh.
giáo dục toàn diện học sinh lớp mình phụ trách, tổ chức thực hiện chủ trương, kế hoạch
của nhà trường ở lớp.
Với tư cách là người đại diện cho tập thể các nhà sư phạm, GVCN lớp có trách
nhiệm truyền đạt tất cả yêu cầu, kế hoạch giáo dục của nhà trường tới tập thể và từng học
sinh của lớp chủ nhiệm. Đồng thời, GVCN lớp có khả năng biến những chủ trương, kế
hoạch đào tạo của nhà trường thành chương trình hành động của tập thể lớp và của mỗi
học sinh.
Mỗi GVCN lớp còn là một thành viên tham mưu của Hội đồng sư phạm, có trách
nhiệm phản ánh đầy đủ thông tin về lớp chủ nhiệm cũng như từng thành viên trong tập
thể lớp, đề xuất các giải pháp giáo dục học sinh, giúp cán bộ quản lý, lãnh đạo nhà
trường đưa ra các định hướng, giải pháp quản lý, giáo dục học sinh hiệu quả.
Đối với học sinh và tập thể lớp, GVCN lớp là nhà giáo dục và là người lãnh đạo gần
gũi nhất. GVCN lớp lãnh đạo, tổ chức, điều khiển, kiểm tra toàn diện mọi hoạt động và các
mối quan hệ ứng xử thuộc phạm vi lớp mình phụ trách dựa trên đội ngũ tự quản là cán bộ
lớp, cán bộ Đoàn – Đội và tính tự giác của mọi HS trong lớp.
GVCN lớp còn là người tập hợp ý kiến, nguyện vọng của từng học sinh của lớp
phản ánh với Hiệu trưởng, với các tổ chức trong nhà trường và với các giáo viên bộ môn.
GVCN với tư cách là đại diện cho lớp còn có trách nhiệm bảo vệ, bênh vực quyền lợi mọi
mặt cho học sinh trong lớp chủ nhiệm.
Như vậy, GVCN là cầu nối giữa Hiệu trưởng (Ban giám hiệu), giữa các tổ chức trong
nhà trường, giữa các giáo viên bộ môn với tập thể học sinh. Nói một cách khác, GVCN là
người đại diện hai phía, một mặt đại điện cho Hội đồng sư phạm, mặt khác lại đại diện cho
tập thể học sinh trong quá trình thực hiện công tác chủ nhiệm lớp.
2.2. Chức năng của người giáo viên chủ nhiệm lớp
a. Chức năng quản lý
GVCN lớp là người thay mặt Hiệu trưởng làm nhiệm vụ quản lý toàn diện học sinh
một lớp học. Để đạt được mục tiêu quản lý một tập thể học sinh, GVCN lớp phải thực hiện
phối hợp các chức năng: lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra.
b. Chức năng giáo dục
Page 10 of 46
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "SKKN Nâng cao hiệu quả của công tác chủ nhiệm thông qua việc xây dựng nề nếp cho học sinh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- skkn_nang_cao_hieu_qua_cua_cong_tac_chu_nhiem_thong_qua_viec.doc