SKKN Một số biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi

Ngôn ngữ là một trong những yếu tố rất quan trọng để trẻ phát triển toàn diện về nhân cách, ngôn ngữ có vai trò là một phương tiện hình thành và phát triển nhận thức của trẻ về thế giới xung quanh. Ngôn ngữ đã giúp trẻ tìm hiểu, khám phá và nhận thức về môi trường xung quanh. Nhờ có ngôn ngữ trẻ nhận biết ngày càng nhiều các sự vật, hiện tượng mà trẻ được tiếp xúc trong cuộc sống hàng ngày. Ngoài ra ngôn ngữ còn là phương tiện phát triển tình cảm, đạo đức, thẩm mĩ. Đó cũng chính là phương tiện để giao tiếp quan trọng nhất đặc biệt đối với trẻ nhỏ, là phương tiện giúp trẻ giao lưu cảm xúc với những người xung quanh hình thành những cảm xúc tích cực.
MỤC LỤC  
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ..........................................................................  
A. ĐẶT VẤN ĐỀ ................................................................................................  
I. Lý do chọn đề tài: ...........................................................................................  
II. Mục đích của SKKN: ...................................................................................  
III. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu: .................................................................  
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ..................................................................................  
I. Cơ sở luận: ..................................................................................................  
II. Cơ sở thực tiễn: .............................................................................................  
* Thuận lợi: ........................................................................................................  
* Khó khăn:.........................................................................................................  
III. Các biện pháp: .............................................................................................  
1. Biện pháp 1 - Khảo sát trẻ đầu năm: ............................................................  
2. Biện pháp 2 - Trò chuyện với trẻ: ..................................................................  
3. Biện pháp 3 - Phát triển vốn từ cho trẻ thông qua giờ học Nhận biết tập nói:  
................................................................................................................................  
4. Biện pháp 4 - Tổ chức cho trẻ chơi theo từng nhóm: ...................................  
5. Biện pháp 5 - Sử dụng tranh, ảnh trong các hoạt động để phát triển ngôn  
ngữ cho trẻ:........................................................................................................  
6. Biện pháp 6 - Các hoạt động khác: .............................................................  
a. Phát triển vốn tthông qua giờ hoạt động góc: .........................................  
b. Phát triển vốn từ thông qua hoạt động ngoài trời, các buổi tham quan:  
................................................................................................................................  
c. Sử dụng đồ dùng, đồ chơi trong mọi hoạt động để phát triển ngôn ngữ cho  
trẻ: .....................................................................................................................  
7. Biện pháp 7 - Sử dụng các trò chơi kết hợp đọc đồng dao, ca dao: . ..........  
8. Biện pháp 8 - Kết hợp với phụ huynh: .........................................................  
IV/ Hiệu quả của SKKN: ....................................................................................  
C. KHUYẾN NGHỊ KẾT LUẬN ................................................................  
I/ Ý nghĩa và bài học kinh nghiệm: ....................................................................  
II/ Khuyến nghị: .................................................................................................  
III/ Kết luận: .....................................................................................................  
MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN  
VỐN TỪ CHO TRẺ 24 – 36 THÁNG TUỔI  
A. ĐẶT VẤN ĐỀ  
I. Lý do chọn đề tài:  
Ngôn ngữ một trong những yếu tố rất quan trọng để trẻ phát triển toàn  
diện về nhân cách, ngôn ngữ có vai trò là một phương tiện hình thành và phát triển  
nhận thức của trẻ về thế giới xung quanh. Ngôn ngữ đã giúp trẻ tìm hiểu, khám phá  
nhận thức về môi trường xung quanh. Nhờ có ngôn ngữ trẻ nhận biết ngày càng  
nhiều các sự vật, hiện tượng trẻ được tiếp xúc trong cuộc sống hàng ngày.  
Ngoài ra ngôn ngữ còn là phương tiện phát triển tình cảm, đạo đức, thẩm mĩ. Đó  
cũng chính là phương tiện để giao tiếp quan trọng nhất đặc biệt đối với trẻ nhỏ, là  
phương tiện giúp trẻ giao lưu cảm xúc với những người xung quanh hình thành  
những cảm xúc tích cực.  
Đối với trẻ mầm non nói chung và trẻ từ 24 tháng tuổi đến 36 tháng tuổi nói  
riêng có số lượng từ tăng nhanh. Nói như vậy để chứng minh rằng: “ Phát triển  
ngôn ngữ một trong những nhiệm vụ hàng đầu nhằm phát triển toàn diện nhân  
cách cho trẻ mầm non”. Chính vì điểu đó tôi đã đưa ra nhiều giải pháp nhằm phát  
triển ngôn ngữ cho trẻ lớp tôi một cách dễ dàng nhất, đạt hiệu quả cao nhất. Và  
năm học vừa qua với những kinh nghiệm của mình tôi cùng các giáo viên trong lớp  
nhà trẻ D1, trường mầm non Gia Thượng đã giúp trẻ lớp tôi có một số vốn từ vô  
cùng phong phú. Chính vì vậy, tôi đã lựa chọn đề tài: Một số biện pháp phát  
triển vốn tcho trẻ 24 – 36 tháng tuổi”  
II. Mục đích của SKKN:  
- Giúp trẻ phát âm chuẩn các từ. Phát triển vốn từ cho trẻ.  
- Phát triển một cách toàn diện cho trẻ về ngôn ngữ, thể chất, thẩm  
mỹ, tình cảm và quan hệ hội.  
- Hỗ trợ đồng nghiệp phụ huynh trong quá trình phát triển ngôn  
ngữ cho trẻ 24 – 36 tháng.  
III. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:  
- Đối tượng nghiên cứu: Phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 – 36 tháng  
- Phạm vi: Áp dụng cho trẻ lớp Nhà trẻ 24- 36 tháng tuổi  
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ  
I. Cơ sở luận:  
Ngôn ngữ giữ vai trò quan trọng trong cuộc sống, nhưng làm thế nào để  
ngôn ngữ phát triển thì chúng ta không thể nói đến việc phát triển vốn từ cho trẻ.  
Đặc điểm phát triển vốn từ của trẻ nhà trẻ : Vốn từ của trẻ tăng nhanh. Trong vốn  
từ của trẻ tất cả các loại từ đơn, từ ghép, bên cạnh đó trẻ có nhu cầu giao tiếp  
với mọi người, trẻ thích tìm hiểu những điều mới lạ trong cuộc sống xung quanh.  
Tôi nhận thấy vốn từ của trẻ tuy phát triển nhưng còn hạn chế, bmáy phát âm của  
trẻ đang hoàn thiện dần nên khi trẻ nói, trẻ hay nói chậm, hay kéo dài giọng, đôi  
khi còn ậm, ừ, ê a, không mạch lạc… Phát triển từ cho trẻ là quá trình hình thành  
giúp trẻ làm quen với các từ mới, củng cố vốn từ làm cho vốn từ phong phú tích  
cực hóa ngôn ngữ. Đặc biệt trẻ ở lứa tuổi 24- 36 tháng tuổi, giai đoạn này người ta  
gọi là giai đoạn tiền ngôn ngữ, đặc điểm sinh lý ở lứa tuổi này có vùng ngôn ngữ  
bắt đầu hình thành và phát triển mạnh, do đó trẻ được tác động mạnh mẽ về  
ngôn ngữ từ phía môi trường xung quanh trẻ, thì vùng ngôn ngữ của trẻ điều  
kiện phát triển nhanh.. Sự phát triển ngôn ngữ gắn liền với sự phát triển của tư duy  
đó giúp trẻ khả năng nhận thức thế giới bên ngoài, do đó ở trẻ luôn xuất hiện  
câu hỏi: Tại sao ? với chúng ta.  
Ngôn ngữ của trẻ tiến bộ nhanh hay chậm tùy thuộc vào điều kiện sống, quan  
hệ giao tiếp với những người xung quanh. Đây là giai đoạn trẻ đang học nói hay  
bắt chước người lớn và chính thời điểm này cô giáo sẽ dạy trẻ, uốn nắn trẻ cách nói  
rõ câu, cách phát âm rõ ràng…Muốn làm được điều đó giáo viên phải nắm vững  
đặc điểm vốn từ của trẻ, có ý thức trau dồi ngôn ngữ, tự học, tự rèn luyện cho mình  
cách nói rõ ràng, ngắn gọn, chính xác, nói chuyện với trẻ đúng đắn, thân ái và lịch  
sự. Tư duy của trẻ ở lứa tuổi này là duy trực quan. Thời kỳ này khả năng tri giác  
về các sự vật hiện tượng bắt đầu được hoàn thiện. Trẻ hay bắt chước những cử chỉ  
lời nói của người khác, do vậy ngôn ngữ của cô giáo phải trong sáng và chính  
xác để trẻ noi theo. Đồng thời, tôi đã tự tìm tòi biện pháp, đúc rút kinh nghiệm từ  
thực tế dạy trẻ ở các nội dung và chọn đề tài: “ Một số biện pháp phát triển vốn từ  
cho trẻ lứa tuổi 24- 36 tháng tuổi”.  
II. Cơ sở thực tiễn:  
Từ thực tế trong công tác tại trường và trong quá trình thực hiện đề tài sáng kiến  
kinh nghiệm, tôi gặp một số thuận lợi và khó khăn sau:  
* Thuận lợi:  
- Chúng tôi luôn nhận được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của BGH nhà trường.  
- Giáo viên nắm vững phương pháp giảng dạy bộ môn, được bồi dưỡng thường  
xuyên và tham gia học tập tại các lớp chuyên đề do Sở, phòng Giáo dục tổ chức.  
- Trường có CSVC phục vụ tốt nhất cho các hoạt động của trẻ.  
- Giáo viên nhiệt tình, sáng tạo làm đồ dùng phục vụ cho việc cung cấp và phát  
triển vốn từ cho trẻ. Trình độ của giáo viên đều đạt chuẩn và trên chuẩn.  
- Phụ huynh học sinh quan tâm, kết hợp cùng chúng tôi trong việc chăm sóc giáo  
dục trẻ. Các cháu đều khỏe mạnh, nhanh nhẹn, ngoan ngoãn, thích tham gia vào  
các hoạt động và vui chơi.  
* Khó khăn:  
- Trẻ 24- 36 tháng tuổi do tôi phụ trách là độ tuổi còn non nớt, các cháu bắt đầu đi  
học còn khóc nhiều, chưa quen với các cô và các bạn, chưa thích nghi với điều  
kiện sinh hoạt và các hoạt động ở lớp, các cháu không cùng tháng tuổi, mỗi cháu  
đều sở thích và cá tính khác nhau.  
- Trí nhớ của trẻ còn nhiều hạn chế, trẻ chưa biết hết khối lượng các âm tiếp thu  
cũng như trật tự các từ khi nhắc lại câu của người lớn. thế trẻ thường xuyên bỏ  
bớt từ, bớt âm khi nói.  
- 85% kinh nghiệm sống của trẻ còn nghèo nàn, nhận thức còn hạn chế dẫn dến  
tình trạng trẻ thường dùng từ chưa chính xác.  
- Trẻ nhút nhát, còn khóc nhiều ở giai đoạn đầu khi trẻ đến làm quen với trường  
lớp mầm non, với cô và các bạn mới.  
=> Đứng trước một số khó khăn như vậy, tôi đã tìm tòi, suy nghĩ và nghiên cứu tài  
liệu để tìm ra một số biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ. Do đó qua thực tiễn dạy  
trẻ hàng ngày, trong những năm học vừa qua, tôi đã rút ra một số kinh nghiệm sau:  
III. Các biện pháp:  
một giáo viên mầm non, người trực tiếp giảng dạy cho trẻ 24– 36 tháng,  
bản thân tôi thấy việc phát triển vốn từ cho trẻ rất cần thiết và quan trọng. Xong  
để phát triển vốn từ của trẻ, phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố nhiều các môn  
học như thơ truyện, nhận biết tập nói và bản thân trẻ phải được tiếp xúc với các  
hoạt động ở mọi lúc, mọi nơi.Thực hiện giờ dạy giáo viên cần sử dụng các thủ  
thuật linh hoạt lồng ghép các môn học khác như: bài thơ, bài hát và những đồ  
dùng trực quan khi dạy trẻ. Trong quá trình dạy trẻ phải linh hoạt sáng tạo và  
thay đổi hình thức nhằm phát huy tính tích cực của trẻ. Cô chú ý quan tâm bồi  
dưỡng từng đối tượng trẻ ở mọi lúc mọi nơi, tạo môi trường phát triển lời nói cho  
trẻ. Dưới đây một số biện pháp để phát triển ngôn ngữ cho trẻ.  
1. Biện pháp 1 - Khảo sát trẻ đầu năm:  
Đây biện pháp theo tôi là rất cần thiết. Qua khảo sát tôi có thể nắm rõ  
những mặt ưu điểm, hạn chế những đặc điểm riêng của từng trẻ cũng như sự  
nhận thức của trẻ là khác nhau. Khi tiếp xúc với trẻ tôi nhận thấy rằng ngôn ngữ  
của trẻ còn nhiều hạn chế về câu từ, về cách phát âm. Khi trẻ nói hầu hết toàn bớt  
âm trong các từ, giao tiếp chưa đủ câu cho nên nhiều khi giáo viên chưa hiểu trẻ  
đang nói về cái gì? Cũng một số trẻ còn hạn chế khi nói, trẻ chỉ biết chỉ tay vào  
những thứ mình cần khi cô hỏi. Đây cũng một trong những nguyên nhân của  
việc ngôn ngữ của trẻ còn nghèo nàn.  
Đối với tuổi mầm non trẻ rất hiếu động tư duy của trẻ duy cụ thể việc: “  
Học bằng chơi chơi học”, bởi thế giới xung quanh trẻ cái gì cũng mới lạ,  
trẻ thích tìm tòi, khám phá những sự vật hiện tượng xung quanh. Trẻ thường hỏi  
các câu hỏi: Tại sao ? Như thế nào ? Nhưng cũng còn một số cháu nhút nhát, ít nói,  
sợ hãi khi lên trả lời câu hỏi. dụ : Cháu …  
vậy phải chú ý đến từng đặc điểm cá nhân của trẻ, năm bắt được đặc điểm cá  
nhân của từng cháu, để những biện pháp giáo dục tốt hơn. .  
Kết quả khảo sát đầu năm như sau: Tổng số học sinh là 40  
Phân loại khả Tốt  
năng  
Khá  
Số  
Trung bình  
Số Tỉ lệ  
Yếu  
Số  
Số  
Tỉ lệ  
Tỉ lệ  
Tỉ lệ  
lượng  
%
lượng  
%
lượng  
%
lượng  
%
Khả năng nghe 15/40 33,3% 15/40 33,3% 5/40 16,7%  
5
16,7%  
hiểu ngôn ngữ  
và phát âm  
Vốn từ  
15/40 33,3% 15/40 33,3%  
7
5
20%  
16,7%  
3
5
13,4  
16,7%  
Khả năng nói 18/40 41,6% 12  
đúng ngữ pháp  
25%  
Khả năng nói 15/40 33,3% 15/40 33,3%  
câu mạch lạc,  
8
21,7%  
2
11,7%  
rõ ràng  
2. Biện pháp 2 - Trò chuyện với trẻ:  
- Trò chuyện với trẻ là hình thức đơn giản nhất để cung cấp vốn từ và phát triển  
ngôn ngữ cho trẻ, đặc biệt là ngôn ngữ mạch lạc. Giáo viên cần phải tận dụng mọi  
thời điểm để trò chuyện với trẻ như trong giờ đón hoặc trả trẻ, trong giờ  
ăn…Những ngày đầu được làm quen với trường, lớp, cô và các bạn thì hầu hết trẻ  
đều nhút nhát, rụt rè khi tiếp xúc. Giáo viên cần phải những giải pháp để làm thế  
nào cô và trẻ thân thiện với nhau. Theo kinh nghiệm của tôi chỉ cần sự quan tâm  
nhỏ như: vuốt trẻ, nở 1 nụ cười một câu hỏi ngắn của với trẻ đã làm  
cho đứa trẻ có tinh thần thoải mái, tự tin hơn trong ngày hôm đó.  
+ Trong giờ đón trẻ giáo viên cần người chủ động khi tiếp xúc với trẻ. VD: Cô D  
chào bạn P. Con chào cô chưa? Con có áo đẹp thế. Ai mua cho con?  
Hàng ngày khi điểm danh tôi thường xuyên nhắc trẻ dạ cô” khi gọi đến tên mình.  
Mặc dù không phải cháu nào cũng trả lời cô khi được gọi tên. Tuy nhiên giáo viên  
vẫn phải duy trì công việc đó hàng ngày. Và để trẻ cảm thấy vui và thích khi được  
gọi tên thì khi đó tôi chuẩn bị sẵn những bông hoa tặng cho trẻ.  
- Giai đoạn đầu chỉ cần trẻ nói từ đơn giản như: “ Chào cô, vâng, dạ…”.  
Đến giai đoạn gần cuối năm đa số trẻ lớp tôi nói được câu “ Con dạ ạ!” và  
khoanh tay rất lễ phép.  
+ Trong giờ ăn cô cho trẻ làm quen với tên gọi của các món ăn, các loại thực  
phẩm( thịt, cá, trứng…) bằng cách hàng ngày thường xuyên trước khi ăn giới  
thiệu các món ăn và cho trẻ mời cô cùng các bạn ăn cơm.  
3. Biện pháp 3 – Phát triển vốn từ cho trẻ thông qua giờ học Nhận biết tập  
nói:  
Phát triển vốn từ cho trẻ ở trường mầm non là công tác giáo dục kế  
hoạch, mục đích, tổ chức phải mang tính hệ thống nhằm phát triển ngôn  
ngữ cho trẻ như một phương tiện giao tiếp quan trọng. thế, chúng ta phải dạy trẻ  
ở mọi lúc, mọi nơi, trong các giờ học đặc biệt giờ học Nhận biết tập nói đưa  
lên hàng đầu.  
Trẻ lứa tuổi 24- 36 tháng đang bắt đầu học nói, bộ máy phát âm chưa hoàn chỉnh,  
vậy trẻ thường nói một từ, nói ngọng, lắp. Cho nên trong tiết học giáo viên cần  
phải chuẩn bị đồ dùng trực quan đẹp, hấp dẫn để gây hứng thú cho trẻ. Song song  
thì giáo viên cũng cần phải chuẩn bị một hệ thống câu hỏi thật rõ ràng, ngắn gọn.  
Và trong khi trẻ trả lời thì cô hướng dẫn trẻ nói đúng từ, đủ câu, không nói cộc  
lốc… Việc chuẩn bị cho tiết học đóng vai trò hết sức quan trọng giúp năng cao kết  
quả học. vậy tôi phải xác định được mục đích, yêu cầu của bài dạy một việc  
bắt buộc đối với mỗi giáo viên, tôi luôn nghiên cứu kĩ giáo án thì mới vận dụng các  
phương pháp, biện pháp giảng dạy một cách linh hoạt, logic. Ngoài việc tôi phải  
chuẩn bị giáo án càng ra tôi còn cần phải chuẩn bị đồ dùng, tranh ảnh vật thật,  
mô hình sinh động, hấp dẫn, mới lạ. .  
dụ : Dạy trẻ nhận biết tập nói “ Con chó, con mèo ”  
Với giờ học này, tôi làm mô hình một trang trại có các con vật như: Chó, mèo…  
sinh động hấp dẫn. Tôi để trẻ quan sát nhận xét, gọi tên những con vật trẻ thấy  
trong mô hình, sau đó cho trẻ về chỗ ngồi ổn định, tôi giả làm tiếng kêu hỏi trẻ;  
Đấy tiếng kêu con gì ? Sau đó đưa mô hình con chó ra cho trẻ quan sát, nhận xét,  
gọi tên các bộ phận của con chó. Với cách giới thiệu như vậy, tôi thấy các cháu rất  
hứng thú học. Không phải chỉ giờ nhận biết tập nói tôi làm như vậy. Mà tôi thường  
xuyên thay đổi dựa vào nội dung giờ nhận biết tập nói để tìm cách giới thiệu hay  
nhất, tạo được sự hứng thú trẻ vào tiết học, xong tôi tiến hành đi sâu vào phần  
chính của bài đó tập nói, rèn cho trẻ phát âm đúng và cung cấp vốn tcho trẻ.  
4. Biện pháp 4 - Tổ chức cho trẻ chơi theo từng nhóm:  
Ở biện pháp này, tôi tổ chức cho trẻ được hoạt động theo từng nhóm nhỏ.  
Đây cơ hội cho trẻ được trò chuyện, giao tiếp với các bạn và phát triển khả năng  
giao tiếp của trẻ, trẻ sớm học được cách truyền tải, suy nghĩ, cảm giác thành lời khi  
chơi với đồ chơi.  
dụ: Tôi cho trẻ chơi ru em. Mỗi nhóm ngồi 3-5 trẻ, mỗi trôm 1 con búp bê. Cô  
cũng bế búp bê , vừa làm động tác vỗ vào người búp bê vừa hát ru: Ru em à ơi và  
lắc lư người, từ đó cũng làm cho trẻ tăng trí tưởng tượng và nâng cao khả năng  
giao tiếp với mọi người xung quanh.  
- Hay trong trò chơi xếp hình, xâu hạt. Tôi cũng tổ chức thường xuyên để trẻ được  
hoạt động với đồ vật, để trẻ phát triển tư duy ngôn ngữ trẻ có thói quen sử dụng  
các đồ chơi. Qua đó cũng kích hoạt cho trẻ phát triển ngôn ngữ.  
5. Biện pháp 5 - Sử dụng tranh, ảnh trong các hoạt động để phát triển ngôn  
ngữ cho trẻ:  
Trong các tiết dạy và các giờ hoạt động khác tôi luôn đưa ra các bức tranh,  
ảnh có các nhân vật thể hiện được nội dung chủ đề. Tôi hướng dẫn trẻ quan sát một  
cách chi tiết những nội dung thể hiện trong tranh, trẻ rất hứng thú quan sát từ đó  
hình thành kỹ năng cho trẻ. Trẻ không chỉ nhắc lại lời nói của cô giáo mà trẻ thể  
hiện sự hiểu biết của mình qua lời nói của trẻ. Tuy nhiên cô giáo cần đặt những câu  
hỏi phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đứa trẻ.  
dụ: TC “ Sách với bạn”  
Mục đích: Tập cho trẻ sử dụng câu ngắn kể về những hoạt động của trẻ  
Chuẩn bị: chụp những tấm ảnh về các hoạt động trong ngày của cô và trẻ. Cô  
xếp ảnh thành một cuốn sách có bìa cứng.  
Tiến hành: Cô và trẻ cùng giở sách xem, cô sẽ đặt những câu hỏi đơn giản  
+ Các bạn đang làm gì đấy?  
+ Ai đang dạy các bạn học?  
Trẻ xem sách cùng bạn.  
- Những giờ trả trẻ tôi thường đọc sách, truyện có tranh minh họa, trẻ rất thích thú  
và luôn miệng hỏi về những nhân vật trẻ nhìn thấy trong tranh.  
6. Biện pháp 6 - Các hoạt động khác:  
a. Phát triển vốn tthông qua giờ hoạt động góc:  
Trong giờ hoạt động chung trẻ không thể phát triển ngôn ngữ một cách toàn  
diện được phải thông qua các hoạt động khác trong đó hoạt động góc.  
Quỳnh Trang hăng hái lên thể hiện bài hát góc chơi âm nhạc.  
Đây thể coi là một hình thức quan trọng nhất, bởi giờ chơi có tác dụng rất  
lớn trong việc phát triển vốn từ, đặc biệt là tích cực hóa vốn từ cho trẻ. Thời gian  
chơi của trẻ chiếm nhiều nhất trong thời gian trẻ ở lớp. Trong quá trình trẻ chơi sử  
dụng các ngôn từ khác nhau có điều kiện học sử dụng các từ nội dung khác  
nhau.  
dụ: Trò chơi bế em, cô nhập vai làm mẹ cho búp bê bú bình sữa, cho búp bê ăn,  
búp bê ngủ trẻ sẽ bắt chước những lời cô nói như: “Con của mẹ ngoan quá!”. Biết  
hát ru “ à ơi ” cho em bé ngủ.  
Điều đó cho thấy giờ chơi không chỉ dạy trẻ kỹ năng chơi mà còn dạy trẻ nghe hiểu  
và giao tiếp cùng nhau. Trong quá trình chơi, trẻ được thực hiện nhiều hành động  
khác nhau với đồ chơi, như vậy trẻ phải sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp và phát  
triển lời nói cho trẻ.  
b. Phát triển vốn tthông qua hoạt động ngoài trời, các buổi thăm quan:  
Hoạt động ngoài trời hay các buổi tham quan cũng rất quan trọng đối với trẻ,  
khi đi dạo trẻ được trực tiếp quan sát trẻ được tiếp xúc với ánh sáng mặt trời,  
không khí trong lành, cây cối cảnh vật xung quanh trẻ.  
Trẻ tham gia hoạt động ngoài trời cùng bạn.  
Mục đích của buổi dạo chơi, tham quan là mở rộng tầm hiểu biết cho trẻ,  
trên cơ sở đó cung cấp, củng cố một số lượng lớn vốn từ cho trẻ. vậy, khi cho  
trẻ tiếp xúc với các hiện tượng thì phải cho trẻ biết gọi tên, đặc điểm của đối tượng.  
dụ: Qua buổi hoạt động ngoài trời: Cho trẻ quan sát cây “ Cây hoa hồng”. Trước  
tiên tôi hướng dẫn trẻ trực tiếp tri giác, tự nhận xét xem cây có những đặc điểm gì?  
Trẻ nói lên suy nghĩ, nhận xét của mình để phát triển ngôn ngữ, tư duy cho trẻ. Sau  
đó tôi đàm thoại với trẻ:  
- Đây là cây hoa gì? Cây có những gì? Lá cây màu gì? Thân cây đâu? Cánh hoa có  
màu gì? Muốn cây tươi tốt thì phải làm gì?  
Khi trẻ phải trả lời các câu hỏi thì sẽ phát triển ở trẻ sự chú ý, tri giác có chủ định.  
Với những câu hỏi đặt ra cho trẻ khi hướng dẫn trẻ đi dạo quan sát đều khích lệ  
ở trẻ nhu cầu giao tiếp, truyền đạt bằng ngôn ngữ của mình. Chính vì vậy trẻ được  
nói lên suy nghĩ, nhận xét của mình về các sự vật hiện tượng trong cuộc sống gần  
gũi xung quanh trẻ, làm tăng thêm số lượng tcho trẻ. Bên cạnh đó cô luôn sửa sai  
câu nói của trẻ ở mọi lúc mọi nơi để giúp trẻ một nguồn vốn từ phong phú, đa  
dạng.  
c. Sử dụng đồ dùng, đồ chơi trong mọi hoạt động để phát triển ngôn ngữ cho  
trẻ:  
Ở lớp những đồ dùng, đồ chơi như: Búp bê, ô tô, các con vật, các hình  
khối…đều những ảnh hưởng lớn đối với sự phát triển của trẻ, lời nói giữa cô và  
trẻ cũng làm tích cực hóa vốn từ cho trẻ.  
dụ: Trong giờ nhận biết tập nói về: Đồ dùng của bé . Tôi thấy trẻ tham gia hoạt  
động chung một cách tích cực.  
* Trò chơi: Gọi tên  
Mục đích: Tập cho trẻ nói 1 số từ  
Chuẩn bị: Một con rối  
Tiến hành: Dùng rối để nói chuyện cùng trẻ.  
- Xin chào, bạn tên là gì? Còn mình tên là Mi Sa đấy.  
- Bạn đi cái gì chân vậy? Mình cũng thích cái đó lắm. Chúng là cái gì thế? ( Đôi  
dép…)  
Qua đó các chuẩn mực hành vi và thói quen tự phục vụ cho trẻ cũng được hình  
thành. Tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi tự lập để phát triển lời nói. Tôi đã hướng  
dẫn trẻ cách chơi, các kĩ năng cơ bản, trong quá trình chơi trẻ đó được phát âm  
nhiều lần các từ khác nhau.  
7. Biện pháp 7 - Sử dụng các trò chơi kết hợp đọc đồng dao, ca dao:  
Đối với trẻ nhà trẻ, được phát triển ngôn ngữ thông qua trò chơi một biện  
pháp tốt nhất. Qua trò chơi trẻ sẽ được giao tiếp mạnh dạn hơn, ngôn ngữ cũng lưu  
loát hơn, vốn từ của trẻ cũng tăng lên. Và tôi cũng nhận thấy rằng khi trẻ chơi trò  
chơi xong sẽ gây hứng thú lôi cuốn trẻ vào bài học. Như vậy, trẻ sẽ tiếp thu bài một  
cách vui vẻ thoải mái bởigiờ chơi có tác dụng rất lớn trong việc phát triển vốn từ,  
đặc biệt là tích cực hóa vốn từ cho trẻ. Thời gian chơi của trẻ chiếm nhiều nhất  
trong thời gian trẻ ở nhà trẻ, thời gian trẻ được chơi thoải mái nhất. Trong quá  
trình chơi trẻ được sử dụng các loại từ khác nhau, có điều kiện học sử dụng các  
từ nội dung rất khác nhau.  
Giáo viên tổ chức chơi kết hợp đọc cho trẻ nghe các bài thơ (ca dao, đồng dao) có  
nội dung phù hợp với hoàn cảnh lúc đó. Cô cho trẻ vừa đọc, vừa làm các động tác  
phỏng, minh họa cho nội dung.  
dụ : TC “Dung dăng dung dẻ ”  
Mục đích : - Kích thích trẻ hứng thú đọc thơ, ca dao, đồng dao  
- Luyện cho trẻ đọc lưu loát  
Tiến hành : Chia lớp thành 2 vòng tròn nhỏ dắt tay nhau đi quanh phòng, vừa đi  
vừa đọc :  
Dung dăng dung dẻ  
Dắt trẻ đi chơi  
Đến ngõ nhà trời  
Lạy cậu lạy mợ  
Cho cháu về quê  
Cho dê đi học  
Cho cóc nhà  
Cho gà bới bếp  
Xì xà xì xụp…  
Đến câu cuối “Xì xà xì xụp ” cô và trẻ cùng ngồi xuống. Sau đó trò chơi được lặp  
lại 2 – 3 lần.  
8. Biện pháp 8 - Kết hợp với phụ huynh:  
Để vốn từ của trẻ phát triển tốt điều không thể thiếu được đó nhờ sự đóng  
góp của gia đình. Việc giáo dục trẻ ở gia đình rất cần thiết, tôi luôn kết hợp chặt  
chẽ với phụ huynh, để phụ huynh có thể nắm được các nội dung chương trình giáo  
dục hiện hành. Vì đây trẻ nhà trẻ, trẻ bắt đầu học nói nên tôi cũng trao đổi với  
phụ huynh về ý nghĩa của việc phát triển vốn tcho trẻ và yêu cầu phụ huynh cùng  
phối hợp với cô giáo trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Khi trò chuyện với trẻ  
phải nói rõ ràng, mạch lạc, tốc độ vừa phải để trẻ nghe cho rõ. Cha mẹ, người thân  
cố gắng phát âm đúng, không nên bắt chước những từ trẻ nói ngọng cần phải  
sửa sai ngay cho trẻ để trẻ bắt chước được đúng. Khuyến khích hoặc tuyên truyền  
phụ huynh cung cấp kinh nghiệm sống cho trẻ. Tránh không nói những tiếng địa  
phương, cần tránh cho trẻ nghe những hình thái ngôn ngữ không chính xác. Đối  
với những cháu mới học nói thì vai trò của phụ huynh trong việc phối hợp với các  
cô giáo trong việc trò chuyện nhiều với trẻ là càng cần thiết bởi nó giúp trẻ được  
vận dụng những kiến thức đã học vào cuộc sống của trẻ, trẻ được giao tiếp, được  
sửa phát âm, sửa ngọng. như vậy tiếng nói tích cực của trẻ mới được hoàn thiện  
và trong sáng.  
IV/ Hiệu quả của SKKN:  
Trải qua quá trình thực hiện bền bỉ, liên tục, trẻ lớp tôi đã những chuyển  
biến rệt, phần lớn số trẻ trong lớp đã một số vốn từ rất khá, các cháu nói năng  
mạch lạc, rõ ràng, biết cách diễn đạt ý muốn của mình, mạnh dạn, tự tin hơn trong  
giao tiếp, vốn từ của trẻ đã phong phú hơn rất nhiều so với kết quả đầu năm tôi đã  
khảo sát.  
Kết quả cuối năm cụ thể như sau: Tổng số học sinh 40  
Phân loại khả  
năng  
Tốt  
Khá  
Trung bình  
Tỉ lệ Số Tỉ lệ Số  
Yếu  
Tỉ lệ  
Số  
lượng  
Tỉ lệ  
Số  
%
lượng  
%
lượng %  
lượng %  
Khả năng nghe  
hiểu ngôn ngữ và  
phát âm  
37/40 95%  
3
5%  
0
0
Vốn từ  
Khả năng nói  
đúng ngữ pháp  
37/40 95%  
37/40 95%  
3
3
5%  
5%  
0
0
0
0
Khả năng nói câu 37/40 95%  
mạch lạc, rõ ràng  
3
5%  
0
0
C. KẾT LUẬN KHUYẾN NGHỊ  
I/ Ý nghĩa và bài học kinh nghiệm:  
Phát triển vốn tcho trẻ ở trường mầm non và đặc biệt lứa tuổi nhà trẻ vấn  
đề rất quan trọng cần thiết. vậy tôi rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:  
- Giáo viên cần hiểu tầm quan trọng của ngôn ngữ với việc hình thành và phát  
triển nhân cách trẻ, không ngừng học tập để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp  
vụ, tự rèn luyện ngôn ngữ của mình để phát âm chuẩn Tiếng Việt.  
- Cần sự kết hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường để giáo viên nắm vững  
đặc điểm tâm sinh lý của trẻ, để từ đó kế hoạch phát triển vốn từ để thống  
nhất phương pháp rèn luyện khả năng nói, khả năng diễn đạt câu mạch lạc, rõ dàng  
cho trẻ một cách có hiệu quả.  
- Tổ chức nhiều trò chơi sử dụng ngôn ngữ. Cô giáo tạo điều kiện cho trẻ nghe  
nhiều và nói chuyện nhiều với trẻ, luôn tìm cách thúc đẩy trẻ sử dụng ngôn ngữ  

Tải về để xem bản đầy đủ

docx 11 trang huongnguyen 13/05/2024 820
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docxskkn_mot_so_bien_phap_phat_trien_von_tu_cho_tre_24_36_thang.docx