SKKN Ứng dụng công nghệ thông tin trong một số tác phẩm văn học cho trẻ mẫu giáo lớn

Từ chỗ những nhà sư phạm mẫu giáo chỉ xem truyện như phương tiện để phát triển ngôn ngữ là chính, đến nhận ra chức năng toàn diện của văn học trong việc phát triển thẩm mĩ, trí tuệ và tình cảm, là cơ sở thuận lợi để đưa “Làm quen với văn học” vào chương trình cải cách được ban hành năm 1990 như một môn học có nội dung giáo dục toàn diện trẻ mẫu giáo. Nội dung chương trình chăm sóc giáo dục mẫu giáo cải cách được xây dựng trên cơ sở mục tiêu kế hoạch đào tạo nhà trẻ mẫu giáo. Báo cáo tổng kết công tác nghiên cứu của Viện nghiên cứu trẻ em trước tuổi học đường đã đánh giá về bộ chương trình mẫu giáo cải cách: “Đây là bộ chương trình đồ sộ nhất trong lịch sử phát triển mẫu giáo nước ta, góp phần chuyển hướng nội dung, phương pháp giáo dục mẫu giáo, nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục ở các trường mẫu giáo theo phương hướng cải cách giáo dục mầm non” (60 năm Giáo dục Mầm non Việt Nam, Phạm Thị Sửu (chủ biên), Nhà xuất bản Giáo dục, Hà nội, 2006, trang 264). Chương trình chăm sóc giáo dục trẻ đã phong phú hơn lên rất nhiều. Chương trình cũng đã xác định nguyên tắc hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ, lấy trẻ làm trung tâm, lấy tình cảm mẹ con làm tình cảm cô cháu, lấy hoạt động tiếp xúc với hiện tượng xung quanh và đồ chơi là con đường cơ bản để hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ.
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:  
ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN  
TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN HỌC CHO TRẺ MẪU GIÁO BÉ  
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:  
Văn học một loại hình nghệ thuật, hoạt động tinh thần cơ bản làm lên sự  
phong phú của nhân cách, đặc biệt nảy sinh tư tưởng, tình cảm, trí tưởng tượng,  
niềm tin và hành động nhân đạo của con người trong môi trường hội tự  
nhiên. Văn học còn góp phần phát triển trí tuệ, tình cảm đạo đức, làm phong phú  
đời sống tinh thần cho trẻ. Những ấn tượng đẹp đẽ về hình tượng nghệ thuật trong  
tác phẩm sẽ thúc đẩy ham muốn sáng tạo nghệ thuật của trẻ.Thông qua các câu  
chuyện kể giáo dục cho các em những tính cách, những phẩm chất ưu của con  
người, giúp cho các em ngay từ những năm đầu tiên của cuộc đời biết nhận thức  
suy xét nhữngmối quan hệ giữa con người với con người trong những hoàn cảnh,  
tình huống, từ đó trẻ biết đánh giá những hành vi của họ, biết đứng về cái thiện, lên  
án cái ác. Truyện giáo dục trẻ vtình thương, cơ sở, nền tảng giúp trẻ tiếp thu và  
phát triển một cách toàn diện. Nhu cầu được nghe kể chuyện, được làm quen với  
văn học một nhu cầu cần thiết của trẻ thơ đặc biệt trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo.  
Ngày nay, nhờ sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật, công nghệ thông  
tin đã đến rất gần với các em, nên trẻ được tiếp xúc nhiều hơn với phim ảnh, với  
nhiều hình ảnh sống động, hấp dẫn, vậy những câu chuyện nếu chỉ được kể cho  
trẻ nghe cùng với sự minh hoạ bằng tranh ảnh đơn thuần như chúng ta vẫn thường  
làm thì sẽ không gây được hứng thú cho trẻ, không phát huy được khả năng tư duy  
cũng như tính tích cực hoạt động của trẻ trong các giờ kể chuyện…cho nên các tiết  
học thường đạt hiệu quả không cao. Xuất phát từ thực tế đó từ nhiệm vụ trọng  
tâm của năm học 2018- 2019 là ứng dụng công nghệ thông tin trong bài giảng, nên  
sau một thời gian giảng dạy lứa tuổi MGB, tôi đã chủ động mày mò, học hỏi về  
công nghệ thông tin, ngoài việc được nhà trường mở các lớp đào tạo nâng cao kỹ  
năng, tôi còn phải học hỏi nhiều qua các đồng nghiệp trường bạn, phụ huynh học  
sinh, người thân và bạn bè… Vì tôi biết nhu cầu của trMG không chỉ được nghe,  
mà còn muốn nói lên những suy nghĩ, đánh giá của mình về sự kiện, hành động mô  
tả trong câu chuyện, thích tham gia trả lời các câu hỏi kết hợp các hình ảnh nhằm  
kích thích hứng thú và duy cho trẻ, đặc biệt trẻ còn thích được sắp xếp theo trình  
tự câu chuyện và tham gia kể chuyện theo ý của mình, qua đó nhằm phát triển  
ngôn từ mạch lạc cho trẻ. Việc trẻ tiếp xúc với truyện chữ kèm theo là hình thức  
tuyệt vời để hình thành biểu tượng về chữ viết cũng như phát trển các kỹ năng  
chuẩn bị cho việc đọc, viết, đó cơ sở tạo tâm thế vững vàng cho trẻ bước vào lớp  
một.  
vậy, tôi đã sưu tầm một số các câu chuyện để chỉnh sửa, cắt, ghép, lồng tiếng  
lại, chữ minh hoạ câu hỏi đàm thoại… cho phù hợp với tiết học kể chuyện,  
nhằm phát huy tính tích cực hoạt động ở trẻ một cách tối đa nhất. Sau đây tôi xin  
được chia sẻ cùng đồng nghiệp sáng kiến kinh nghiệm “Ứng dụng công nghệ  
thông tin trong một số tác phẩm văn học cho trẻ mẫu giáo lớn”.  
Mục đích của sángkiến này là giúp tôi có thêm nhận thức cũng như kinh nghiệm về  
việc áp dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy. Song đó mới chỉ sử dụng cho lứa  
tuổi MGB của trường mầm non Gia Thượng trong năm học 2017-2018 và đầu năm  
học 2018-2019, bước đầu đã thu được những thành công nhất định, các con rất  
thích thú tham gia vào các giờ học LQVH , đặc biệt những trò chơi củng cố ở cuối  
tiết học, đó thực sự một niềm vui đối với người giáo viên như tôi. Tôi mong  
nhận được những ý kiến đóng góp của các đồng nghiệp để hoàn thiện hơn nữa ý  
tưởng này  
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ  
1.Nội dung lý luận của vấn đề:  
Phương pháp tổ chức hoạt động LQVH được hình thành và phát triển trong các  
trường có chuyên ngành Giáo dục Mầm non. Cùng với sự phát triển của ngành  
học, khoa học, phương pháp tổ chức cho trẻ LQVH đã dần khẳng định vị trí, vai  
trò quan trọng của với đời sống con người.  
Từ chỗ những nhà sư phạm mẫu giáo chỉ xem truyện như phương tiện để phát triển  
ngôn ngữ là chính, đến nhận ra chức năng toàn diện của văn học trong việc phát  
triển thẩm mĩ, trí tuệ và tình cảm, cơ sở thuận lợi để đưa “Làm quen với văn  
học” vào chương trình cải cách được ban hành năm 1990 như một môn học nội  
dung giáo dục toàn diện trẻ mẫu giáo. Nội dung chương trình chăm sóc giáo dục  
mẫu giáo cải cách được xây dựng trên cơ sở mục tiêu kế hoạch đào tạo nhà trẻ mẫu  
giáo. Báo cáo tổng kết công tác nghiên cứu của Viện nghiên cứu trẻ em trước tuổi  
học đường đã đánh giá về bộ chương trình mẫu giáo cải cách: “Đây bộ chương  
trình đồ sộ nhất trong lịch sử phát triển mẫu giáo nước ta, góp phần chuyển hướng  
nội dung, phương pháp giáo dục mẫu giáo, nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục  
các trường mẫu giáo theo phương hướng cải cách giáo dục mầm non” (60 năm  
Giáo dục Mầm non Việt Nam, Phạm Thị Sửu (chủ biên), Nhà xuất bản Giáo dục,  
nội, 2006, trang 264). Chương trình chăm sóc giáo dục trẻ đã phong phú hơn  
lên rất nhiều. Chương trình cũng đã xác định nguyên tắc hoạt động vui chơi hoạt  
động chủ đạo của trẻ, lấy trẻ làm trung tâm, lấy tình cảm mẹ con làm tình cảm cô  
cháu, lấy hoạt động tiếp xúc với hiện tượng xung quanh và đồ chơi là con đường  
cơ bản để hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ.  
Xác định văn học nội dung giáo dục đào tạo trẻ mẫu giáo rất toàn diện, nên  
những nhà sư phạm mẫu giáo chủ trương đưa dần văn học đến với trẻ một cách  
khoa học, thận trọng và có mức độ. Tính khoa học ấy biểu hiện trong việc lựa chọn  
các thể loại văn học, hình thức truyền đạt gần gũi, phù hợp với sphát triển ngôn  
ngữ của trkể chuyện. Nguồn xúc cảm, tính trực quan của hình ảnh và trí tưởng  
tượng kì thú trong truyện cũng tạo ra sự hấp dẫn đồng cảm với trẻ. Nếu trước  
kia tác phẩm văn học chỉ được xem là phương tiện giáo dục thì bây giờ giáo dục  
không chỉ giúp trẻ biết mà còn giúp trẻ hiểu vtác phẩm văn học đó, tất nhiên chỉ  
mức độ “làm quen” với nó.  
Trẻ em luôn khao khát nhận thức, khám khá thế giới hiện thực xung quanh. Các  
em muốn biết tất cả, muốn thâu tóm tất cả lí do tồn tại của cuộc sống vào khối óc  
nhỏ của mình. Thế giới xuất hiện trước mắt trẻ thơ với toàn bộ sự phong phú,  
phức tạp của nó. Trong điều kiện đó, truyện kể những bài học đầu tiên giúp trẻ  
nhận thức thế giới, định hướng cơ bản trong môi trưòng xung quanh, giúp trẻ chính  
xác hoá những biểu tượng đã thực về hội, dần dần từng bước cung cấp cho  
trẻ những khái niệm mới mở rộng kinh nghiệm sống. Mỗi câu chuyện đều giới  
thiệu với trẻ về một góc, một mặt của đời sống: có khi là lịch sử hào hùng, có khi  
là sinh hoạt gia đình, hoạt động của bác nông dân, chú bộ đội… Tiếp xúc với tác  
phẩm, trẻ không chỉ thoả mãn nhu cầu nhận thức, mà còn được mở rộng tầm nhìn,  
làm giàu tri thức, làm sâu sắc hơn quá trình quan sát xã hội, môi trường xung  
quanh. Từ sự quan sát, thúc đẩy quá trình phân tích, so sánh, tìm hiểu nguyên nhân  
kết quả, rút ra kết luận, những tri thức, góp phần rèn luyện trí nhớ, phát triển khả  
năng tư duy và các năng lực tâm lý khác: như tưởng tượng, ngôn ngữ… Tiếp xúc  
với tác phẩm văn học giúp trẻ nắm được nhiều điều thú vị, bố ích, có kinh nghiệm  
sống đáng kể, cùng với nó là năng lực trí tuệ nhất định để trẻ thể bước vào  
trường phổ thông.  
Được tiếp xúc với các câu chuyện không những giúp trẻ những hiểu biết nhất  
định mà còn hình thành phẩm chất đạo đức, tạo nền móng cho nhân cách của trẻ về  
ý niệm tốt xấu, sự trung thực, sự khiêm tốn, tính cần cù, tình bạn, lòng dũng cảm…  
Khi bàn về giào dục đạo đức cho lứa tuối mẫu giáo trong cuốn Sự ra đời của một  
công dân”, nhà giáo dục V.A.Xu – khô- lum- xki cũng đã xác định: Điều cơ bản  
trong giáo dục đạo đức là làm sao để đứa trẻ trở thành những người yêu tổ quốc,  
yêu tha thiết mảnh đất quê hương và nhân dân mình, sống trong sạch, ngay thẳng,  
vị tha, can đảm, khiêm nhường, không khoan nhượng với điều ác và sự lừa rối”.  
Những quan điểm đạo đức truyền thống ấy đã được đưa vào những tác phẩm văn  
học được trẻ em rất yêu thích.  
Giáo dục thẩm mỹ một bộ phận không thể tách rời với giáo dục trí tuệ, đạo đức.  
Đối với con người, nhu cầu về cái đẹp là nhu cầu có tính bản chất, gắn với quá  
trình phát triển thể chất và tinh thần. Đôtxtôiépxki đã nói một câu bất hủ “Cái đẹp  
cứu thế giới”, giáo dục thẩm mỹ trở thành nhiệm vụ trọng tâm của quá trình cho trẻ  
làm quen với tác phẩm văn học. Qua tiếp xúc với văn học, dưới sự hướng dẫn của  
cô, trẻ hình thành và phát triển những cảm xúc thẩm mỹ, tình cảm thẩm mĩ, thị  
hiếu nghệ thuật, năng lực cảm thụ văn học, khả năng hoạt động nghệ thuật và sáng  
tạo nghệ thuật.  
Văn học phương tiện hiệu quả mạnh mẽ không chỉ đối với việc giáo dục trí tuệ,  
đạo đức, thẩm mĩ mà nó còn ảnh hưởng vô cùng to lớn đến sự phát triển ngôn ngữ  
của trẻ. Nhà văn M.Goócki định nghĩa “Văn học nghệ thuật ngôn từ” đã chỉ rõ  
ngôn từ chất liệu xây dựng lên hình tượng văn học. Từ những hình tượng trong  
truyện kể, trẻ nhận thức được tính rõ ràng, chính xác của từ, shoàn hảo của các  
câu với những cấu trúc ngữ pháp phong phú. Những câu chuyện cổ dân gian là  
những mẫu lời nói giản dị, nhịp điệu, mở ra trước mắt trẻ sự biểu cảm của  
ngôn ngữ, giàu chất hài hước, diễn đạt sinh động và giàu hình tượng. Văn học có  
vai trò to lớn trong việc phát triển ngôn ngữ của trẻ, rèn luyện khả năng phát âm  
đúng, một khía cạnh rất quan trọng là tích luỹ nội dung ngôn ngữ – phát triển vốn  
từ, nói đúng ngữ pháp, phát triển lời nói mạch lạc.  
Như đã nói trên, văn học có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc giáo dục thẩm  
và giáo dục lòng nhân ái cho trẻ. Các tác phẩm văn học đã giúp các em cảm  
nhận cái đẹp của thiên nhiên và cuộc sống, mở ra cho trẻ thế giới tình cảm của con  
người để trẻ thể đồng cảm với các nhân vật trong tác phẩm, biết xúc động với  
những nhân vật trong tác phẩm, cũngnhư trẻ thể bước đầu biết đồng cảm với  
những tâm trạng những người gần gũi xung quanh, đây chính là phương tiện vô  
cùng quan trọng để hình thành và phát triển nhân cách của trẻ.  
Chính vì nó quan trọng cần thiết với trẻ như vậy nên việc áp dụng công nghệ  
thông tin không những đã thực hiện được nhiệm vụ trọng tâm của năm học mà còn  
đưa trẻ đến với thế giới hình ảnh đẹp, sống động, hấp dẫn… lại phù hợp với lứa  
tuổi của mình. Ở đó trẻ không chỉ được nghe, được gặp lại các nhân vật đã học  
thông qua hệ thông câu hỏi mà còn được tham gia sắp xếp các chuỗi hình ảnh và  
kể câu chuyện hoàn toàn sáng tạo theo khả năng của mình, được hoà nhập vào thế  
giới truyện cổ tích vô cùng hấp dẫn, sống động chọn lựa trò chơi theo ý thích  
của mình.  
Đó là món quà, có ý nghĩa tinh thần to lớn đối với trẻ, tạo cho trẻ một tâm thế háo  
hức chờ đợi như được xem một bộ phim hay. Đó cũng là thành công không nhỏ  
đối với những người làm công tác giáo dục.  
2. Cơ sở thực tiễn:  
Ở trường tôi, mặc dù các lớp đều được trang bị đồ dùng, tranh ảnh để minh hoạ  
truyện kể trong các tiết LQVH, nhưng để gây được hứng thú cho trẻ, ngoài việc sử  
dụng tranh truyện sẵn có, giáo viên còn tích cực làm rối bằng các nguyên vật liệu  
khác nhau. Việc tạo được hình ảnh đẹp, hấp dẫn, sống động, tạo được các cử động  
đơn giản cho con rối rất tốn công sức gặp không ít khó khăn, nhưng khi sử dụng  
lại cần sự phối hợp của ít nhất là hai giáo viên. Mặc rất tốn công sức gặp  
nhiều khó khăn như vậy nhưng mới chỉ đáp ứng được nhu cầu nghe ở trẻ, chưa  
phát huy tính tích cực và nhu cầu muốn được trải nghiệm những hiểu biết của trẻ.  
Trước kia, ở lớp của tôi trong những giờ LQVH tôi thường minh hoạ truyện kể  
bằng tranh hoặc sa bàn rối dẹt, rối tay… Mặc trẻ cũng hứng thú tham gia song  
bản thân tôi cũng nhận ra được những hạn chế của phương pháp này khi diễn tả  
những cảnh đi, chạy, đuổi bắt, biến mất, xuất hiện… hoặc khi tôi muốn cho trẻ  
được chơi trò chơi ở những tiết chuyện đa số trẻ đã biết thì công việc chuẩn bị  
mất rất nhiều thời gian và chưa thu hút được trẻ tích cực tham gia. Nhưng từ khi tôi  
ứng dụng công nghệ thông tin, trình chiếu những hình ảnh đã qua xử hiệu ứng  
để minh hoạ chuyện kể, trong những giờ LQVH thì trẻ lớp tôi đã hứng thú hơn rất  
nhiều, đặc biệt khi cho trẻ sắp xếp hình ảnh minh hoạ theo nội dung câu chuyện,  
tìm hình ảnh đúng sai, bé làm phim và thử trí nhớ truyện của mình qua “Thế gới  
truyện cổ tích”… trẻ rất thích thú và tham gia rất tích cực, ngoài việc giúp trẻ trải  
nghiệm những hiểu biết của mình, còn giúp trẻ tự tin trong giao tiếp, không còn  
tình trạng trẻ ngồi suốt buổi học để nghe cô kể chuyện một cách thụ động. Kết thúc  
tiết học cô có thể chia thành nhiều nhóm nhỏ, cá nhân để trẻ được điều khiển nhân  
vật kể chuyện theo ý thích của mình, qua hoạt động góc phòng máy Kismart.  
Trường MN Gia Thượng đã được trang bị phòng máy vi tính, máy chiếu… Như  
chúng ta đã biết việc xử hiệu ứng hình ảnh trên máy vi tính là một việc làm rất  
phức tạp, tốn nhiều thời gian cũng như công sức. Bên cạnh sự ủng hộ của BGH  
nhà trường, đồng nghiệp phụ huynh học sinh trong quá trình thực hiện việc xử  
tạo hình ảnh cử động cho nhân vật trên máy vi tính, tôi vẫn gặp rất nhiều khó  
khăn: trước tiên là hạn chế về kiến thức tin học của bản thân, để tạo ra các câu  
chuyện cũng như để chỉnh sửa cắt ghép, lồng tiếng… còn liên quan đến việc hiểu  
biết sử dụng thành thạo nhiều phần mềm khác nhau, có phần mềm thì tôi sử  
dụng tốt nhưng nhiều phần mềm tôi phải tự tìm hiểu, mày mò và học hỏi thêm.  
Mặc vậy, với tâm huyết nghề nghiệp tôi đã nỗ lực phát huy khả năng của mình  
bằng việc tận dụng những thuận lợi sẵn có, hạn chế dần những khó khăn để hoàn  
thành các file sử dụng cho các câu truyện trong chương trình đổi mới lứa tuổi  
MGB. Dưới đây một số biện pháp cắt, ghép, chỉnh sửa, lồng tiếng mà tôi đã thực  
hiện để thiết kế bài dạy tại trường mầm non Gia Thượng.  
3. Các biện pháp thực hiện:  
3.1. Sưu tầm đĩa VCD, mạng Internet.  
+ Đĩa VCD Phim truyện cổ tích mẫu giáo của nhà xuất bản Vũ Tuyết Mai.  
+ Đĩa Video CD của Trùng Dương Audio- Video  
- Một số hình ảnh động, khung hình trên mạng Internet chèn cho sinh động phù  
hợp với bài dạy.  
3.2. Biện pháp cắt, ghép, chỉnh sửa, tạo tiêu đề, lồng tiếng trên phần mềm Video  
Studio 10.  
3.2.1 Chèn phim vào danh sách để biên tập.  
- Cho đĩa phim vào máy/ chọn Inser video  
- Hộp thoại Open Video hiển thị, chọn đoạn phim cần biên tập, khi đó đoạn phim  
được đưa vào danh sách của hộp thoại Ulead Video Studio- Movie.  
- Ngoài việc chèn đoạn phim vào danh sách, cũng thể chèn ảnh vào danh sách  
xen kẽ với các đoạn phim: Chọn Insert Image để mở hộp thoại Add Image Clips,  
chọn một hoặc nhiều ảnh cần chèn thêm vòa danh sách.  
- Lưu ý: có thể thay đổi lại thứ tự hiển thị của các ảnh vào các đoạn phim.  
3.2.2 Cắt giữ lại một đoạn phim  
Để giữu lại một đoạn phim trong thước phim chèn vào trong danh sách, thực hiện  
như sau:  
+ Chọn thước phim cần thực hiện cắt.  
+ Thước phim được chọn sẽ hiển thị trên khung Preview.  
+ Click vào nút Play để xem phim.  
+ Nhấn chuột vào nút Mark in nằm góc trái phía dưới thanh trượt và kéo để tạo  
điểm mốc đầu của đoạn phim cần giữ, sau đó kéo đén điểm đầu đoạn phim cần giữ,  
thả chuột ra và Click vào biểu tượng Mark- in để xác định mức đầu đoạn.  
+ Tiếp tục Click chuột vào biểu tượng Mark- out góc phải dưới thanh trượt, để tạo  
điểm mốc cuối của đoạn cần giữ.  
( Màu xanh nằm giữa hai nút là phần đoạn phim cắt được giữ lại )  
- Lưu ý: có thể chia đoạn phim thành những hoạt cảnh nhỏ bằng cách Click vào  
biểu tượng Split Video into seenes based, lúc này nhìn danh sách các đoạn phim đã  
được chia thành những hoạt cảnh nhỏ.  
3.2.3 Tạo tiêu đề cho đoạn phim.  
- Click vào ô Title, một danh sách sổ xuống gồm có hai dòng chữ của tiêu đề.  
Dòng đầu tiên là tiêu đề đầu đoạn phim, dòng cuối là tiêu đề cuối đoạn phim.  
+ Chọn một dòng tiêu đề cần hiệu chỉnh( dụ: minh họa chỉ dòng “ go for the  
win” là tiêu đề đầu đoạn, “ You Made It” là tiêu đề cuối đoạn, lúc này nhìn lên  
khung sẽ thấy tiêu đề hiển thị.  
+ Kích đúp vào tiêu đề trong khung Preview và thực hiện nhập đổi lại tiêu đề,  
muốn thay đổi phông chữ , Click vào biểu tượng Text Properties hộp thoại Text  
Properties hiển thị:  
·Biểu tượng T giúp thay đổi phông chữ tiếng việt.  
·Biểu tượng phía dưới giúp thay đổi độ lớn, nhỏ của tiêu đề.  
·Giúp thay đối màu sắc của tiêu đề  
3.2.4 Lồng tiếng vào đoạn phim.  
Nếu đoạn phim có lời kể nhanh, giọng Nam không phù hợp với bài dạy, ta có thể  
tách âm thanh và lồng giọng kể của chính mình bằng cách:  
+ Đưa đoạn phim vào danh sách, click vào biểu tượng Split Audio, âm thanh trong  
đoạn phim sẽ được tách rời, xóa âm tanh khỏi danh sách.  
+ Thực hiện ghi âm bằng cách Click vào biểu tượng ghi âm Recorder/ ấn Start để  
bắt đầu ghi, muốn dừng ghi âm bấm chọn Stop.  
3.2.5 Chèn âm thanh vào đoạn phim.  
Click vào biểu tượng Load background hộp thoại Audio option hiển thị.  
+ Click chọn Add Audio để chọn đưa vào danh sách đoạn âm thanh cần chèn vào  
làm âm thanh nền.  
- Nếu trường hợp đoạn phim biên tập đã có âm thanh cho từng Clip, khi chèn âm  
thanh nền ta sẽ thấy chọi nhau, người nghe sẽ cảm giác lộn xộn, ta khắc phục  
bằng cách kéo thanh trượt Volume để tăng giảm lượng âm thanh nền hoặc âm  
thanh Video.  
+ Nếu kéo về phía Music thì âm lượng âm thanh nền sẽ lớn hơn âm thanh có trong  
Clip.  
+ Nếu kéo về phía Video thì ngược lại.  
(Chú ý: không nên để thanh trượt ở giữa)  
- Sau khi đã chỉnh sửa hoàn thành bộ phim thì thực hiện thao tác:  
+ Click chọn mục Crêat Disc hộp thoại Studio Crêat Disc hiển thị.  
+ Chọn định dạng đĩa cần xuất.  
( Ghi tên file đoạn phim đã thực hiện cho dễ nhớ)  
3.3 Insert những đoạn phim đã hoàn chỉnh lên Powerpoint  
3.3.1. Insert những đoạn phim lên Powerpoint  
- Thực hiện lệnh:  
+ Insert/ Movíe and Sounds/ Movie from file/ chọn ổ đã lưu đoạn phim đó.  
( Kéo đoạn phim đó cho phù hợp với khung hình trong Powerpoint)  
3.3.2 Thiết kế các trò chơi củng cố trên Powerpoint  
*Trò chơi “ Bé tập làm phim”  
- Vẽ đoạn phim lên Powerpoint, chọn khung hình cho phù hợp đã Donwload trên  
mạng.  
- Insert các đoạn phim đã được cắt ghép và lưu trong ổ.  
- Chỉnh sửa các đoạn phim đó cho phù hợp theo đoạn phim, số liệu đoạn phim.  
- Thực hiện liên kết các đoạn phim bằng cách: Click vào hình ảnh cần liên kết  
để chuyển sang Slide sau /chọn Action Setting/ xuấ thiện hộp thoại Hyperlink to/  
bấm vào mũi tên ở hộp đầu tiên/ chọn Slide/ hiện Slide cần chuyển đến/ Ok.  
* Trò chơi “ Bé tập lồng tiếng cho phim”  
- Thực hiện chồng lớp đoạn phim lên ảnh phim bằng cách:  
+ Vào Still Image/ tìm hình ảnh đoạn phim/ chọn Save as Still Image ảnh tự động  
đưa vào trong danh sách.  
+ Đưa ảnh vừa tạo vào thực hiện chồng lớp đoạn phim: Đưa hình ảnh đoạn phim  
vừa tạo lên khung Time line ( có hình ảnh một đoạn phim), đưa tiếp đoạn phim cần  
cho trẻ lồng tiếng vào ô thứ hai trong khung Time line ( kéo đoạn phim hiện trên  
khung Prewiew cho khít với đoạn phim) sau đó xuất phim thành tập tin bằng cách:  
Click vào Create Video file/ chọn định dạng đuôi cần xuất.  
- Tôi có thể vào mạng để sưu tầm hình ảnh động trên mạng, hoặc các hình nền  
khác phù hợp với nội dung câu chuyện, chủ đề để những trò chơi củng ctrong tiết  
học gây hứng thú thực sự cho trẻ.  
- Tương tự như vậy, tôi thiết kế các trò chơi chọn nhanh, kể đúng” Thế giới  
truyện cổ tích” (cô có thể lồng, ôn một số truyện trẻ đã được làm quen hoặc chọn  
một câu truyện hoàn toàn mới để giới thiệu vào tiết học sau, nhằm gây hứng thú,  
kích thích trí tò mò cho trẻ) “ Cánh cửa thần kỳ”…  
3.4. Biện pháp lồng tiếng trên phầm mềm Super MP3  
- Donwload phần mềm trên mạng về, chỉnh sửa cho phù hợp, tạo cho nó đường  
linh vào ta thường hay sử dụng.  
- Mở phần mềm ghi âm/ Bấm vào nút Recorde màu đỏ để bắt đầu ghi âm/ dừng lại  
thì bấm Stop.  
- Với phần mềm này, tôi có thể lồng tiếng cho từng Slide với các câu hỏi minh họa  
phù hợp, giới thiệu tên trò chơi, hướng dẫn cách chơi, kết hợp với hình ảnh động  
tôi đã sưu tầm trên mạng, tạo ra những hình ảnh động, rất hấp dẫn trẻ.  
- Sau khi đã lồng tiếng xong tôi đưa vào các trang Slide bằng cách:  
+ Insert/ Movie and Sounds/ Sounnds from file/ chọn âm thanh/ đưa vào Slide phù  
hợp.  
- Chú ý: khi thiết kế các bài giảng này, ta phải để tất cả các đoạn phim, âm  
thanh đã lồng tiếng vào trong một Folde có tên gọi phù hợp.  
4. Kết quả:  
Với việc chịu khó tìm tòi, học hỏi vcách cắt ghép những đoạn phim, tôi đã thiết  
kế được 1 bài giảng điện tử hoàn chỉnh với hình ảnh sinh động, hệ thống câu hỏi  
phù hợp hệ thống trò chơi kỳ thú, hấp dẫn… tôi đã sử dụng một số bài giảng  
vào lớp học của mình, trong quá trình đó tôi thấy:  
- Trẻ rất hứng thú với tiết học, chăm chú nhìn ngắm từng hành động, lời nói của  
nhân vật, hăng hái tham gia trả lời các câu hỏi của cô.  
- Ứng dụng công nghệ thông tin vào giờ học, trẻ được nâng cao những hiểu biết  
của mình, trẻ hoạt bát nhanh nhẹn hơn, giờ học, giờ chơi đan xen nhau một cách  
nhẹ nhàng mà vẫn đạt được hiệu quả giúp trẻ tư duy, kể chuyện sáng tạo nhằm  
phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ.  
- Với những kiến thức tiếp thu được qua một số hoạt động cho trẻ LQVH và hoạt  
động trên lớp, trẻ lớp tôi phát triển tốt về tư duy, thông minh hơn tự tin trong  
giao tiếp.  
Kết quả được thể hiện rất rõ qua việc đánh giá nhận thức của trẻ về môn  
LQVH đầu năm cuối năm học 2018 – 2019 như sau:  
Hìnhthức Các bài giảng không ứng dụng  
Các bài giảng ứng dụng  
tổ  
CNTT  
CNTT  
chức  
Đầu năm  
Tỉ lệ  
Cuối năm  
Kỹ năng  
Nghe  
Số trẻ  
30  
Số trẻ  
Tỉ lệ  
57,69%  
53,84%  
45  
40  
86,53%  
76,92%  
Nói  
28  
III. KẾT THÚC VẤN ĐỀ:  
Qua việc nghiên cứu sáng kiến này, cũng như việc đã tổ chức một số tiết làm quen  
với văn học tại lớp, tôi đã rút ra được một sbài học kinh nghiệm sau:  
- Ta có thể lên mạng internet dễ dàng tìm một số hình ảnh phù hợp không chỉ cho  
các tiết Làm quen văn học mà còn có nhiều hình ảnh phục vcho môn học và các  
hoạt động khác.  
- Sưu tầm một số đĩa phim hoạt hình có hình ảnh hấp dẫn, sống động trên thị  
trường rất dễ, mà hình ảnh lại phù hợp với câu chuyện kể cho trẻ.  
- Nếu sự tìm tòi, đầu tư, chịu khó chỉnh sửa hình ảnh cũng như các câu hỏi đàm  
thoại sáng tạo thêm một số trò chơi củng cvào cuối tiết học… trẻ rất hứng thú và  
kích thích khả năng tư duy, sáng tạo của trẻ.  
- Kết thúc tiết học, cô có thể cho cá nhân, nhóm trẻ trực tiếp được làm phim được  
lồng tiếng, kể chuyện hoặc vào thế giới những câu truyện cổ tích …qua hoạt động  
góc phòng máy Kirdmart.  

Tải về để xem bản đầy đủ

docx 11 trang huongnguyen 25/03/2024 370
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "SKKN Ứng dụng công nghệ thông tin trong một số tác phẩm văn học cho trẻ mẫu giáo lớn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docxskkn_ung_dung_cong_nghe_thong_tin_trong_mot_so_tac_pham_van.docx