SKKN Một số biện pháp giúp trẻ học tốt môn làm quen văn học
Từ khi lọt lòng mẹ đến lúc chập chững tập đi, tập nói, đến lúc trẻ biết viết, đọc thì văn học là chiếc cầu nối, là phương tiện dẫn dắt trẻ. Nói những tiếng nói, đi những bước đi đầu tiên, ngôn ngữ trau chuốt của trẻ, ca dao, chuyện kể là tấm gương mẫu mực về lời ăn tiếng nói cho trẻ học tập là phương tiện hữu hiệu trong việc giáo dục trẻ lòng yêu thiên nhiên, yêu quê hương, đất nước, tình yêu mến bạn bè, với những người thân, biết được việc làm tốt, biết yêu càu đẹp, cái thiện, gét cái ác độc, phê phán những việc xấu, kính yêu Bác Hồ, thật thà, ngoan ngoãn… và còn là phương tiện hình thành các phẩm chất đạo đức trong sáng, mà đặc biệt ở trẻ, nhà trẻ thì vốn từ và ngôn ngữ của trẻ được phát triển mạnh mẽ, trẻ nói mạch lạc, nói diễn cảm, nói day, nói đúng câu, đúng từ và đúng ngữ pháp.
MÔN:LÀM QUEN VĂN HỌC
ĐỀ TÀI
Một số biện pháp giúp trẻ học tốt môn
làm quen văn học
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
1) Yêu cầu của nghành.
Bác Hồ kính yêu của chúng ta khi còn sống Bác rất quan tâm đến mọi
người, nhất là các cháu thiếu niên nhi đồng. Bác chú trọng từ bửa ăn, giấc
ngủ và sự tiến bộ của các cháu.
Bác hồ nói:
“Trẻ thơ như búp trên cành
Biết ăn, biết ngủ, biết học hành ngoan”
Đúng như vậy, trẻ ở tuổi mầm non thật đáng yêu, tâm hồn trẻ thơ
ngây, hồn nhiên như tờ giấy trắng. Mọi hoạt động học tập và vui chơi trong
quá trình trăm sóc giáo dục trẻ ở trường mầm non đều đem lại cho trẻ những
điều kỳ lạ, thần tiên.
Thông qua hoạt động dạy và học dưới hình thức như tạo hình, hoạt
động với đồ vật, môi trường xung quanh… sẽ giúp trẻ phát triển trí tuệ, óc
sáng tạo, nhân cách con người “làm quen văn học” là một hoạt động không
thể thiếu được đối với trẻ ở lứa tuổi mầm non, vì thông qua các hoạt động
làm quen với các tác phẩm văn học là loại hỉnh nghệ thuật, đặc sắc, nghệ
thuật nghành từ không thể thiếu được trong đời sống con người. Đặc biệt nó
rất gần gũi với trẻ thơ, từ buổi đầu thơ ấu trẻ đã sống tran hòa trong không
khí lời ru “ầu ơ” đầy yêu thương tận tình của mẹ, bà… và đó cũng là cánh
cửa mở ra chân trời nhận thức cho trẻ.
Từ khi lọt lòng mẹ đến lúc chập chững tập đi, tập nói, đến lúc trẻ biết
viết, đọc thì văn học là chiếc cầu nối, là phương tiện dẫn dắt trẻ. Nói những
tiếng nói, đi những bước đi đầu tiên, ngôn ngữ trau chuốt của trẻ, ca dao,
chuyện kể là tấm gương mẫu mực về lời ăn tiếng nói cho trẻ học tập là
phương tiện hữu hiệu trong việc giáo dục trẻ lòng yêu thiên nhiên, yêu quê
hương, đất nước, tình yêu mến bạn bè, với những người thân, biết được việc
làm tốt, biết yêu càu đẹp, cái thiện, gét cái ác độc, phê phán những việc xấu,
kính yêu Bác Hồ, thật thà, ngoan ngoãn… và còn là phương tiện hình thành
các phẩm chất đạo đức trong sáng, mà đặc biệt ở trẻ, nhà trẻ thì vốn từ và
ngôn ngữ của trẻ được phát triển mạnh mẽ, trẻ nói mạch lạc, nói diễn cảm,
nói day, nói đúng câu, đúng từ và đúng ngữ pháp.
Qua việc cho trẻ làm quen văn học chính là hình thành ở trẻ những
tình cảm đạo đức tốt đẹp, những cảm xúc thẫm mỹ, phát triển trí tưởng
tượng như: Lòng yêu thiên nhiên ở quả, cây hoa lá, lòng kính trọng yêu
thương gần gũi và giúp đỡ những người thân xung quanh trẻ như ông bà, bố
mẹ, cô giáo, anh chị em. Thông qua hoạt động này trẻ làm tái tạo và sáng tạo
thêm những tình tiết của tác phẩm một cách hồn nhiên phù hợp với nội dung
của tác phẩm. Thông qua sự hiểu biết, trí tưởng tượng của trẻ. Đồng thời trẻ
đọc thuộc thơ, kể lại chuyện được. Chính vì thế để đạt được mục đích của
môn học: làm quen với văn học bản thân tôi đã nghiên cứu suy nghĩ, tìm ra
một số biện pháp để giảng dạy tốt môn: Làm quen văn học.
2) Thực trạng ban đầu.
Qua các năm thực hiện chuyên đề cho trẻ làm quen TPVH- LQCV,
giáo viên đã thực sự có nhiều đầu tư vào việc nâng cao các phương pháp,
hình thức cho trẻ LQTPVH đã chú trọng nhiều đến việc đọc, kể diễn cảm và
dạy trẻ kể lại chuyện, kể sáng tạo dưới nhiều hình thức đa dạng và phong
phú. Song việc dạy trẻ đóng kịch còn còn có nhiều hạn chế.
Chưa có sáng tạo trong việc chuyển thể từ chuyện kể sang kịch bản
sân khấu, không tạo ra được tính kịch - sự kiện - sự biến, lời thoại còn dài
dòng khó hiểu, giáo viên còn nặng nề trong việc dẫn chuyện làm cho kịch
bản trở nên rời rạc - kém hấp dẫn.
Bên cạnh đó vẫn còn một số giáo viên khả năng còn cảm nhận các tác
phẩm văn thơ chuyện còn hạn chế giọng đọc và cách phối hợp ánh mắt, cử
chỉ, điệu bộ, minh họa chưa bộc lộ cảm xúc hấp dẫn cuốn hút trẻ, phương
pháp lồng ghép tích hợp chưa linh hoạt sáng tạo kết quả trên trẻ chưa cao, trẻ
chưa thực sự say mê, hào hứng, sử dụng đồ dùng dạy học chưa có khoa học,
dẫn đến giờ học trẻ ít tập trung chú ý hiệu quả trên tiết học chưa cao.
Hầu hết các vở kịch còn thiếu các yếu tố phụ trợ như: Âm thanh, cảnh
trí, trang phục… làm cho hoạt động đóng kịch không thu hút được sự chú ý
của trẻ.
Giáo viên chưa chủ động linh hoạt trong việc tổ chức các hoạt động
đóng kịch cho trẻ - nếu có thì chủ yếu là trong tiết học. Còn trong các giờ
chơi, các buổi sinh hoạt thì hầu như chưa có.
Đối với nghành giáo dục yêu cầu trẻ “học mà chơi, chơi mà học”
thông qua các tác phẩm văn học một cách nhẹ nhàng, gần gũi hơn.
3) Giải pháp đã sử dụng.
Qua áp dụng thực hiện chuyên đề: Làm quen năn học trong trường
Mầm non. Đây là một chuyên đề lớn, không kém phần quan trọng khi thực
hiện chuyên đề này giáo viên cần nghiên cứu kỹ tài liệu chuyên đề bồi
dưỡng thường xuyên tham gia dự giờ các tiết dạy thơ, chuyện để đúc rút
kinh nghiệm cho bản thân.
Từ đó tôi nhận thấy rằng bộ môn làm quen văn học có tầm quan trọng
trong việc phát triển nhận thức, giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mỹ và qua
đọc thơ kể chuyện làm giàu vốn từ cho trẻ, rèn luyện khả năng phát âm và
cách diễn đạt mạch lạc. Các tác phẩm thơ chuyện chỉ có thể phát huy tác
dụng của nó khi cô biết chuyển tải được tư tưởng cảm xúc của tác giả và nội
dung tác phẩm thông qua các hình thức nghệ thật hấp dẫn, phong phú, đa
dạng. Qua đó giúp trẻ phát huy được tính tích cực cá nhân- tự tin- độc lập-
sáng tạo- hình thành tư duy- khả năng ghi nhớ có chủ đích, những tình cảm
đạo đức tốt đẹp có khả năng hoạt động nghệ thuật, sáng tạo.
Thường xuyên nghiên cứu kỹ các bài soạn, soạn bài trước khi giảng
Làm, mua sắm, sưu tầm đủ đồ dùng, đồ chơi phong phú hấp dẫn với
dạy.
trẻ và đảm bảo tính khoa học như: Tranh, con rối, vật thật ….
Để thu hút, lôi cuốn trẻ vào giờ học tôi lựa chọn các hình thức tổ chức
phù hợp, hấp dẫn như qua tổ chức hội thi: “Bé yêu thơ”; câu đố, tham quan
và đặc biệt là chọn những hình ảnh thật, đẹp và những nhân vật ngộ nghĩnh
sáng tạo đưa vào công nghệ thông tin để trẻ hòa nhập , hóa thân vào các
nhân vật trong tác phẩm mà tôi lồng ghép được. Đề rồi từ chở trẻ trăm chú
xem, lắng nghe cô giới thiệu dẫn đến trẻ nắm bắt được nội dung tiết học một
cách chủ động.
Với từng bài dạy, thể loại tôi đưa ra hệ thống câu hỏi đã chuẩn bị có
tính lôgic, để đàm thoại với trẻ một cách sôi nổi theo phương trâm: “lấy trẻ
làm trung tâm” để phát huy trí tưởng tượng, những cảm xúc của trẻ, tình liên
hệ thực tiễn, sáng tạo phù hợp với từng nội dung của bài mà trẻ không bị áp
đặt một cách gò bó.
Cùng với từng bài dạy, tôi dùng các thủ thuật khác nhau để dẫn dắt
vào bài chuyển hoạt động một cách linh hoạt ví như trông một tiết kể chuyện
: “Bác gấu đen và hai chú thỏ” vào đầu tôi cho trẻ chơi: “Trời nắng, trời
mưa”. Hỏi trẻ: “Con gỉ đi tắm nắng”. Cô giói thiệu chuyện và kể cho trẻ cho
trẻ nghe, sau đó cô kể kết hợp cho trẻ tri giác bẳng tranh, con rối, cho trẻ
xem “Chương trình bông hoa nhỏ” từ đó trẻ dễ nhận thấy, phân tích tính
cách nhân vật, biết đâu là thiện - ác, đâu là tốt đẹp - xấu để trẻ hướng tới cái
đích mà trẻ cần làm đó là biết yêu thương, giúp đỡ như trẻ yêu bạn “thỏ
trắng” giúp “Bác gấu đen” (chuyện “bác gấu đen và hai chú thỏ”). Làm
những công việc nhỏ mà có lể giáo như lấy tăm, bưng nước mời ông bà,
giúp cô lau bán, ghế….
- Hay với tiết dạy thơ : Bó hoa tặng cô
- Đầu tiên cô cho trẻ chơi trò chơi “ gieo hạt”
- Bác nông dân vừa trồng vườn hoa rất đẹp mời lớp mình đến thăm quan,
nào chúng mình cùng đi .Các cháu vừa đi vừa làm bác nông dân quốc đất
- Các cháu thấy vườn hoa như thế nào? Khi cho trẻ tham quan vườn hoa
giúp trẻ nhận biết được các loại hoa , cách chăm sóc hoa, ích lợi của hoa.
- Trè vừa được tham quan vườn hoa vừa được nghe cô đọc thơ làm cho trẻ
thích thú. Khi đọc thơ lần 1 cô hỏi
+ Cô vừa đọc bài thơ gí do ai sáng tác?
- Trong bài thơ các bạn nhỏ hái hoa tặng cô nhân nhịp gì? ( 8/3)
- Ngày 8/3 là ngày quốc tế phụ nữ ngày của các bà, các mẹ, các cô, các chị.
- Lớp mình cùng đi hái hoa nào?
- Cô đọc lần 2 theo tranh
+ Trích dẫn nội dung bài thơ
- Lần 3: cô đọc thơ tranh chữ to
- Các cháu ơi trong tháng này có một ngày lễ rất ngày lễ của các thầy cô giáo
đó là ngày gì vậy? ( ngày 20/11)
+ Đàm thoại: Bạn nào trả lời giỏi được thưởng một phần quà
- Các bạn nhỏ trong bài thơ hái hoa tặng ai? Nhân nhịp gì? ( tặng hoa cho cô,
nhân nhịp 8/3)
- Bó hoa của bạn nhỏ có những loại hoa gì? Màu sắc như thế nào?( trẻ trả
lời)
- Khi tặng hoa các bạn nhỏ hồi hộp như thế nào?
- Tình thương của cô giáo đối với các bạn nhỏ như thế nào?
- Các cháu sẽ làm gì cho cô giáo vui lòng ( trẻ kể)
- Gíao dục: Các cháu phải học ngoan, vâng lời cô, biết giúp cô những công
việc vừa sức như phụ cô cất đồ dùng, đồ chơi, xếp bàn ghế gọn gành, khi
thấy sân trường có là vàng rơi các cháu nhặt bỏ vào sọt rác
Sau đó cho trẻ đọc thơ
- Các cháu ơi các bạn nhỏ trong bài thơ đã đi hái hoa tặng cô, các cháu đã có
gì để tặng cô chưa ? vậy lớp mình sẽ đi hái hoa tặng cô nhé!
- Chia 2 đội mỗi đội 5 cháu
Đội 1 cháu hái hoa có chữ u
Đội 2 cháu hái hoa có chữ ư
- Cách chơi: Khi có hiệu lệnh bạn đầu hàng sẽ bật liên tục qua 3 vòng lên hái
hoa theo quy định bỏ vào giỏ của đội mình và chạy về cuối hàng đứng bạn
đầu hàng tiếp tục lên hái hoa
- Khi hái hoa tạo sự hứng thú cho trẻ và còn kết hợp giúp trẻ rèn luyện chữ
cái.
Cô giáo khi dạy trẻ đọc thơ, kể chuyện giọng của cô phải chuẩn xác,
diễn đạt trôi chảy phủ hợp với từng bài, cô phát âm không ngọng. Khi dạy
trẻ đọc thơ cô chú ý nghe trẻ đọc và phát hiện ra trẻ nói ngọng, đọc sai để
sửa cho trẻ như cô đọc lại để cho trẻ đọc theo nhiều lần và động viên trẻ “
con đọc gần giỏi rồi”. Thi đua giữa các tổ với nhau để phát hiện tổ nào đọc
tốt hơn để dẫn đến nhiều trẻ đọc tốt.
Dạy trẻ nói đủ câu, cô nói trước và cho trẻ nhắc lại nhiều lần hoặc cho
trẻ khác giúp đỡ các bạn.
Trong giờ học cô luôn chú ý bao quát chung để tìm hiểu đặc điểm của
từng trẻ để gần gũi động viên trẻ giúp đỡ những trẻ còn yếu kém, đưa trẻ
vào hoạt động với các bạn có nề nếp hơn, hứng thú hơn.
Ngoài những hoạt động chung của tiết học Làm quen văn học tôi luôn tạo
điều kiện cho trẻ được tiếp xúc và cũng cố tích lũy những biểu tượng mà cô
đã cung cấp cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi như dạo chơi ngoài trời, trong các
môn học khác, trong vui chơi đồng thời đặt nền móng cho giờ học sau đặt
kết quả cao.
Trong lớp học có bảng Làm quen văn học tôi thường gắn các hình ảnh
của nội dung chuyện hoặc bài thơ theo từng giai đoạn để trẻ dễ nhận đó là
câu chuyện gí? Bài thơ nào? Và trẻ có thể đọc, kể với nhau.
Bản thân tôi luôn học hỏi các đồng nghiệp và thực hành, kiến tập các
chuyên đề ở trường, huyện và tự bồi dưỡng mình để có thêm nhiều kinh
nghiệm.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
1) Cơ sở lý luận:
Văn học là môn rất quan trọng đối với trẻ mầm non, là phương tiện
phát triển ngôn ngữ cho trẻ có đủ vốn từ để nói năng lưu loát, diễn đạt gãy
gọn biết sữ dụng từ đúng lúc, đúng chỗ, không những thế mà việc dạy trẻ
làm quen với những từ ngữ nghệ thuật như từ tượng hình, từ tượng thanh
giúp trẻ phát triển trí tưởng tượng, óc quan sát, khả năng tư duy độc lập
trong suy nghĩ.
Thông qua nội dung các tác phẩm giáo dục trẻ biết yêu quý người hiền lành,
biết ơn và kính yêu ông bà, bố mẹ, anh chị, bạn bè, biết nhường nhịn em
nhỏ.
Xuất phát từ những vai trò cụ thể đó cho nên hoạt động dạy trẻ làm
quen với văn học là môn học không thể thiếu trong trương trình chăm sóc
giáo dục trẻ. Ví vậy việc nâng cao chất lượng dạy trẻ làm quen với tác phẩm
văn học là vấn đề quan trọng trong đỗi mới hình thức tổ chức giáo dục mầm
non.
Làm quen với tác phẩm văn học chỉ ra mức độ, giới hạn, yêu cầu của
việc cho trẻ tiếp xúc với tác phẩm văn học qua nghệ thuật đọc và kể chuyện
của cô giáo. Hoạt động này nhằm dẫn dắt, hướng dẫn trẻ cảm nhận những
giá trị nội dung, nghệ thuật phong phú trong tác phẩm, khơi gợi ở trẻ sự rung
động, hứng thú dối với văn học, có ấn tượng về những hình tượng nghệ
thuật, cái hay cái đẹp của tác phẩm và thể hiện sự cảm nhận đó qua các hoạt
động mang tính chất văn học nghệ thuật như đọc thơ. Kể chuyện, chơi trò
chơi đóng kịch; Cao hơn là tiến tới sáng tạo ra những vần thơ, câu chuyen5
theo tưởng tượng của mình, góp phần hình thành và phát triển toàn diện
nhân cách trẻ.
Trong mỗi tác phẩm văn học, thề giới mới của cuộc sống thực tại bao
gồm thiên nhiên, xã hội, con người được diển tả, biểu đạt, truyền đạt trong
những hình thức đa dạng độc đáo. Văn học nói về thế giới loài vật, cỏ cây,
hoa lá, mọi hiện tượng thiên nhiên, vủ trụ mà trẻ nhìn thấy được, cũng nói về
những gì gần gũi trong môi trường sống của trẻ như làng quê, cánh đồng,
dòng sông, phiên chợ, lớp học, khu phố,…Qua tác phẩm văn học, trẻ bắt đầu
nhận ra trong xã hội những mối quan hệ, những tình cảm gia đình, tình bạn
tình cô cháu,…Trẻ cũng dần nhận ra có một xã hội ràng buộc con người với
nhau trong lịch sử đấu tranh cách mạng, trong tình làng nghĩa xóm. Văn học
có thể cần đề cặp đến những lực lượng siêu nhiên như thần linh, ông bụt, cô
tiên, phù thủy, quỷ sứ và cả những phép màu còn tồn đọng trong tâm thức
dân tộc. Đây cũng là đối tượng miêu tả của văn học làm nên sự phong phú,
hấp dẫn của đời sống tinh thần.
Nhờ được nghe, tiếp xúc với một số lượng văn học, có những hiểu
biết sơ đẳng về văn học, đó là khả năng mô tả cuộc sống xung quanh phong
phú, hấp dẫn bằng những dạng thức khác nhau. Bước đầu trẻ sẽ nhận biết
được sự khác nhau về nội dung và hình thức giữa các thể loại thơ, chuyện.
Không những giúp trẻ cảm nhận được cái đặc sắc của cách diễn đạt hình
tượng, nhà sư phạm còn cần giúp trẻ phân biệt được hình tượng nghệ thuật
với hiện thực, hình thành một số khái niệm văn học như: Thơ, chuyện, nhân
vật, hình ảnh…, giúp trẻ trao đổi những điều đã được nghe và bộc lộ những
suy nghĩ của mình về tác phẩm, nhằm phát triển đời sống tinh thần của trẻ.
Tác phẩm văn học là một chỉnh thể nghệ thuật, cấn giúp trẻ nhận biết
các mối quan hệ biểu hiện giữa hoàn cảnh, trạng thái, tình huống và nhân
vật; giữa lời kể, lời thuật, lời bạch trữ tình và ngôn ngữ nhân vật; Giữa
không khí, âm sắc, giọng điệu chung của tác phẩm văn học và hành động
văn học. Chưa yêu cầu trẻ phải nhớ hết mối quan hệ phức tạp và chưa đòi
hỏi trẻ phân biệt quan hệ chính phụ trong truyện mà chỉ nhằm giúp trẻ nhận
ra tính liên tục của cốt truyện trong các mối liên quan đến nhân vật trung
tâm của tác phẩm.
Với truyện kể, ta hãy giúp trẻ nhận ra, nhớ được sắc thái cơ bản trong
giọng kể, lời thuật, phân biệt ngữ điệu lời nói các loại nhân vật, giúp trẻ
nhận ra ngôn ngữ đời thường (khẫu ngữ) và ngôn ngữ thơ giàu nhạc tính.
Qua tác phẩn văn học, trẻ quen dần tính chất nhiều ý nghĩa và tinh luyện của
ngôn ngữ văn hoá, dần dần tiến tới hiểu được nghĩa thực đến nghĩa bóng, từ
nghĩa văn cảnh đến ý tưởng nhà văn muốn truyền đạt.
Khi cho trẻ làm quen với tác phẩn văn học góp phần mở rộng nhận
thức, phát triển trí tuệ, giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mĩ, phát triển ngôn
ngữ, phát triển ở trẻ hứng thú “đọc sách” kỷ năng đọc và kể tác phẩm.
2) Giả thiết khoa học:
Sức mạnh của tác phẩm văn học thật vô cùng to lớn. Trong quá trình
cho trẻ tiếp xúc với tác phẩm, bằng tài năng sư phạm cùng với nghệ thuật
đọc và kể chuyện văn học, cô giáo ở trường Mầm non sẽ hướng trẻ vào
những vẽ đẹp nội dung và nghệ thuật tác phẩm, gây ấn tượng đầu tiên cho
trẻ về hình tượng nghệ thuật được xây dựng bằng ngôn ngữ dân tộc.
Cấn phải dạy trẻ biết lắng mình với tác phẩm văn học, hòa vào cõi
mộng mơ, trau rồi thói quen đón nhận được các hòa âm tinh tế thoáng qua,
bất chợt đến từ các nguồn sống khác, nghĩa là dạy trẻ tập trung rung động,
cái rung động của mính chứ không phải của ngưới khác.
Tác phẩm văn học thể hiện hiện thực cuộc sống bằng hình tượng nghệ
thuật. Bằng sức mạnh của tính hình tượng, sự biểu cảm của ngôn ngử, những
hình tượng con người, con vật, bức tranh thiên nhiên được vẽ nên bằng ngôn
ngữ đã tác động mạnh mẽ đến trẻ em. Ấn tượng trẻ thu nhận được từ tác
phẩm văn học khi nghe đọc, kể tác phẩm phụ thuộc vào trình độ phát triển
nhận thức thẩm mỹ của trẻ, vào khả năng cảm nhận văn học trong sự thống
nhất giữa nội dung và hình thức nghệ thuật tác phẩm. Chúng ta đều nhận
thấy rằng, trẻ mẫu giáo có khả năng cảm nhận văn học nghệ thuật trong thể
hoàn chỉnh, thống nhất giửa nội dung và hình thức tác phẩm bằng cách nghe
người lớn đọc, kể tác phẩm.
Trẻ em nói chung và đặc biệt trẻ 2 tuổi rất thích những tác phẩm vui
nhộn, dễ chán những bài văn buồn và gây sự sợ hãi. Tuy nhiên phản ứng của
trẻ trước những cảnh hoặc chi tiết chứa đựng sự căng thẳng phụ thuộc vào cả
cách thể hiện của người lớn khi đọc, kể tác phẩm lẫn đặc điểm tâm lý cá
nhân cũng như sự từng trải của trẻ.
Trẻ 3-4 tuổi trong khi nghe kể những câu chuyện có tính hài hước đã
biểu hiện hành động điệu bộ cho thấy chúng hiểu không chỉ nội dung mà cả
sự bất bình thường của những tình tiết có tính hài hước của tác phẩm. Qua
quan sát, người ta nhận thấy trẻ ở độ tuổi này rất thích xem chèo và chúng
khoái trí cười theo khi xuất hiện những nói hóm hỉnh, sâu sắc của các nhân
vật hề. Người lớn thấy cảnh đó chắc là ngạc nhiên vì sao một cô, cậu bé lại
hiểu được những truyện khôi hài, khó hiểu dến như vậy. Nhưng rõ ràng là
các em có khả năng bẩm sinh hiểu được sự hài hước.
Đối với trẻ ở tuổi mẩu giáo nhỡ (4-5 tuổi), giáo viên cần chọn và đọc
cho trẻ những tác phẩm có nội dung và hình thức nghệ thuật phức tạp hơn.
Trên cơ sở những gì trẻ tiếp thu được ở giai đoạn trước, ở chúng sẽ tạo ra
khả năng xâm nhập sâu hơn vào nội dung tác phẩm khiến chúng xác định
thái độ đối với các nhân vật, sự kiện phản ánh trong tác phẩm.
Đối với trẻ mẫu giáo (5-6 tuổi), ở giai đoạn này, cảm nhận thẫm mĩ đã
có một bước phát triển trong tiếp nhận văn học. Sự tiếp nhận tác phẩm đầy
đủ hoàn thiện hơn, biểu hiện trước tiên là sự hiểu biết những câu chuyện cổ
tích, bài thơ, những đoạn văn xuôi hay và và sự làm giàu tình cảm qua quá
trình tích lũy hình tượng nghệ thuật.
Đối với trẻ mẫu giáo lớn thì sự quan tâm tới tác phẩm văn học sẽ giúp
trẻ hiểu được nội dung tác phẩm, các nhân vật trong tác phẩm trở nên gần
gũi dễ hiểu hơn. Sự cảm thông với nhân vật, sự lo lắng cho số phận của nhân
vật của trẻ đã mang đặc điểm cá tính hơn. Sự hồi hộp, lo lắng này của trẻ em
đã nếm trải ngay cả trong sự kiện đời sống hàng ngày.
Cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học nhà sư phạm cần hướng trẻ
đến vẻ đẹp mang “bản chất người” của hình tượng văn học. Vẻ đẹp của tính
người trong cá nhân đơn nhất ở văn học trẻ em có thể nhận ra từ cách cư xử
tế nhị, nhân hậu giữa đồng loại (bác gấu đen và hai chú thỏ), trong sự thành
thực đối với bản thân và người khác, trong cử chỉ biết ơn… Cẩn dạy trẻ nghệ
thuật tự đặt mình vào chổ đứng và tình thế của người khác như hiểu được sự
cực nhọc mẹ, nỗi ưu tư của cha, hiểu sự cô đơn nghèo khó của bạn bè, nỗi
bất hạnh của con người, rồi tận tình làm nhẹ vơi đi gánh nặng đó. Từ những
vẻ đẹp nhỏ nhặt thưởng ngày trong cư xử mang “tính người” ấy sẽ nãy sinh
ra những hành động cao thượng nhân ái vì con người.
Làm quen với tác phẩm văn học còn bao hàm cong việc cô giáo tổ
chức để trẻ hứng thú bước vào hoạt động văn học nghệ thuật một cách tự
nhiên như đọc thơ diễn cãm, kể lại truyện một cách sáng tạo, hóa thân vào
các vai diễn trong trò chơi đóng kịch…Để trẻ trở thành một cách chủ thể
hoạt động văn học nghệ thuật một cách tích cực, sáng tạo.
Việc cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học tuy mới chỉ là như vậy
nhưng nó là việc làm cao cả, có ý nghĩa lớn trog việc hình thành ở trẻ những
phẩm chất cao quý, đẹp đẽ của con người, đặc biệt là tình yêu đối với ngôn
ngữ nghệ thuật.
Bản chất giàu xúc cảm và tình cảm là nét tâm lý nổi bật của trẻ thơ khiến trẻ
nhanh tróng bộc lộ cảm xúc, tình cảm khi nghe đọc và nhận thấy sự thể hiện
của cô giáo. Khả năng tự chủ, tự vệ của trẻ rất mong manh cho nên nhũng
hình tượng nghệ thuật tác động đến trẻ vô cùng mạnh mẽ. Tính dễ xúc cảm
có thể làm có thể kêu lên trước một cảnh tượng thương tâm nào đó; Hay mọi
hành động của nhân vật, hình ảnh, tiếng nói có tính hài hước đều gây được
sự hứng khởi. Chẳng hạn khi cô giáo cho trẻ làm quen với truyện “Tấm
cám”, những chi tiết thể hiện tiếng khóc của Tấm trong tác phẩm đều gây
cho trẻ cảm xúc mạnh mẽ. Đó là tiếng khóc “nức nở” khi bị Cám lừa trút
sạch giỏ cá, tôm; Lá tiếng “òa lên khóc” khi con bống người bạn thân, người
bạn thân thiết bị mẹ con Cám làm thịt; là tiếng khóc “tức tưởi” lúc phải nhặt
thóc với gạo, là nổi tủi thân tủi phận “Tấm bưng mặt khóc”. Trẻ thể hiện nỗi
lo lắng, thương tâm với nhân vật. Khi cô kể đến đoạn Tấm thử hài, được về
cung làm hoàng hậu, trẻ vui mừng, thốt lên phấn khởi…
Tiếp nhận của trẻ là tiếp nhận ngây thơ, triệt để.Trong tiếp nhận văn
học trẻ thường vận dụng kinh nghiệm trực tiếp và nguyên hợp, không phân
biệt sự khác nhau giửa chúng. Trẻ em không đòi hỏi lí lẽ mà đòi hỏi sự hợp
lí về tình cảm trong khuôn khổ hạn hẹp của mình. Cho nên giáo viên khi giải
thích cho trẻ cần nhất quán vá tạo dựng niếm tin. Với niếm tin ngây thơ trẻ
em có tôn giáo của mình. Chúng luôn đứng về cái thiện, chia sẽ, bênh vực
những nhân vật tốt, dũng cảm và cao cả , những nhân vật nhỏ bé yếu ớt cần
được bảo vệ. Chẳng hạn khi cô giáo tổ chức cho trẻ chơi trò chơi đóng kịch
tác phẩm “chú Dê đen” trẻ rất thích nhân vật chú Dê đen và hứng thú gi nhớ
đó là bởi trẻ tiếp nhận ngây thơ, khjong6 phân biệt thế giới nghệ thuật trong
tác phẩm và hiện thực đời sống.
Tiếp nhận văn học của trẻ em ít bị ràng buộc bởi lí trí và chứa đựng tưởng
tượng mạnh mẽ. Ở trẻ em, tưởng tượng về cái có thật. Do vậy trẻ em rất dễ
dễ bị cuốn hút bởi những hình tượng hoang đường kì vĩ, tác động mạnh vào
trí tưởng tượng của các em như; Hình tượng cậu bé làng gióng vươn vai
bỗng lớn thành một tráng sĩ, những chi tiết về sự hóa thân kì diệu của nhân
vật,cô Tấm, phép màu kì lạ của “Quả Bầu tiên”…, Như vậy trí tưởng tượng
phát triển sớm ở trẻ mẫu giáo là một thứ của trời cho, có tính chất tiên nhiên,
là tiền đề để cô giáo thực hiện tốt hoạt động đọc và kể tác phẩm.
3) Qúa trình thử nghiệm:
Việc nghiên cứu và thử nghiệm các hình thức này được diễn ra song
song trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Đây là hình thức cơ bản cho trẻ làm quen với văn học. Các tác phẫm
văn học cho trẻ làm quen trong hoạt động này thường nằm trong trương
trình, có nội dung phù hợp với chủ đề đang thực hiện. Thời gian hoạt động
này thường không nhiều. Vì vậy trpong giờ hoạt động này tôi sử dụng rất
nhiều hình thức khác nhau để gây hứng thú giúp trẻ nhanh chóng hiểu nội
dung chuyện, nhớ chuyện, thuộc thơ và đọc kể diễn cảm. trong hoạt động
này hình thức sử dụng đồ dùng trực quan rất có hiệu quả. Đồ dùng trực quan
có thể là tranh ảnh, mô hình, rối que, rối bóng, trang phục, sân khấu…
Ví dụ với bài thơ “Hoa kết trái” Chủ điểm thế giới thực vật
* Hoạt động 1: Dạo chơi công viên
Cô cháu mình cùng đi chơi công viên nhé!
- giáo dục trẻ đi đúng luật lệ giao thông.
- Cô và trẻ vừa đi vừa hát “hoa trong vườn”
- A! ở đây có rất là nhiều loại hoa khoe sắc, c/c có muốn ngắm hoa không
nào?
- Cô chỉ vào từng loại hoa cho trẻ quan sát gọi tên và màu sắc của hoa.
- Các loại hoa có vẽ đẹp khác nhau nhưng đều có ích lợi làm đẹp cảnh quang
môi trường, và vì thế mọi người phải biết trồng hoa, chăm sóc hoa đó là việc
làm BVMT.
- Cô có một bài thơ nói về các loại hoa rất hay c/c hãy lắng nghe xem có
những loại hoa gì nhé!
* Hoạt động 2: Hoa gì đẹp thế
- Cô đọc thơ lần 1 tại mô hình
- Cô đọc thơ lần 2 cho trẻ xem tranh và giảng từ khó “tim tím, chói trang,
đốm lửa, trắng tinh, hoa tươi” cho trẻ nhắc lại từ khó.
- Bạn bướm thích đọc thơ nên bạn bướm cũng đến tham gia đọc thơ với lớp
mình nè!
- Cho các cháu đọc thơ theo tranh rời có chữ to.
- Cô chỉ từ trong tranh cho trẻ đọc
+ Trẻ đọc thơ:
- Cho cả lớp đọc hai lần
- Cho hai tổ đọc nối tiếp
- Cho trẻ đọc to đọc nhỏ. Cá nhân đọc
+ Đàm thoại: Trò chơi: Đố vui có thưởng
- Hai đội sẽ thi đua lắc nhịp để trả lời câu hỏi, nếu đúng sẽ được một phần
quà.
- Caùc con thấy có những loại hoa nào trong bài thơ?
- Hoa cà có màu gì? Hoa mướp có màu gì?
- Hoa lựu có màu gì? Hoa vừng ntn?
- Hoa đỗ làm sao? Hoa mận có màu gì?
- Tác giả nhắc các bạn nhỏ điều gì?
Vì sao các bạn nhỏ đừng nên hái hoa tươi?
* GD: Các cháu đừng hái hoa vì hoa làm đẹp cho môi trường, hoa còn kết
trái để có quả chín cho các con ăn nữa, các con phải biết chăm sóc cây để
cây cho nhiều hoa thêm nữa.
* Hoạt động 3: Trò chơi
- TC: Hái hoa
- Ôi có nhiều hoa nở quá các chú bướm tung tăng bay đi tìm hoa c/c hãy hái
hoa tặng cho các chú bướm nha!
- Để hái hoa được nhiều chúng ta sẽ thi đua nhé!
- Cô sẽ chọn ra ba đội.
Đội 1 hái hoa mang chữ chữ l
Đội 2 hái hoa mang chữ chữ n
Đội 3 hái hoa mang chữ chữ m
- Nhận xét và đếm kết quả chơi của 3 đội.
* KẾT THÚC: NX- TD
- Khi giải thích từ khó tôi thường dẫn chứng bằng vật thật như từ “trắng
tinh” tô đã cho trẻ quan sát hoa mận thật.
Với từ “rung rinh” tôi đã cầm cành cây nhỏ lắc nhẹ để cho trẻ cảm nhận
được sự lay nhẹ của cành cây.
* Đối với tiết chuyện trình tự dạy cũng như tiết thơ và tôi thường xuyên cho
trẻ tham gia đóng kịch.
Với trẻ mầm non hoạt động chung chiếm một thời gian rất ngắn so với
thời gian của các hoạt động khác. Do đó tôi đã tận dụng thời gian đón trẻ, trả
trẻ, hoạt động ngoài giờ, hoạt động vui chơi hay trong hoạt động chuyển tiếp
để giới thiệu hay ôn luyện các bài thơ, bài đồng dao, câu chuyện.
4) Hiệu quả mới
Quan điểm giáo dục trẻ theo hướng đổi mới giáo viên là người hướng
dẫn, tạo cơ hội cho trẻ hoạt động vui chơi tìm tòi khám phá. Trẻ hoạt động
không bị áp đặt để phát huy năng lực bản thân, được trao đổi, được nhận xét
nên trẻ trở nên năng động hơn.
Sau khi thực hiện chuyên đề LQVH bản thân tôi không ngừng phấn
đấu học tập, học hỏi kinh nghiệm đồng nghiệp. Qua các tiết học trẻ rất hứng
thú tham gia vào các hoạt động học tập, ngôn ngữ của trẻ trở nên mạch lạc
hơn so với trước đây.
Khi chưa áp dụng Sau khi áp dụng
Số lượng trẻ
Kết quả
hình thức đổi mới
hình thức đỗi mới
- Đọc diễn cảm
30
30
50% - 60%
70% - 80%
- Thuộc nhiều, nhanh
70% - 75%
65% - 70%
85% - 90%
80% - 90%
- Phát triển ngôn ngữ,
30
diễn đạt tốt
III. BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp giúp trẻ học tốt môn làm quen văn học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- skkn_mot_so_bien_phap_giup_tre_hoc_tot_mon_lam_quen_van_hoc.doc