SKKN Một số kinh nghiệm phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3 – 4 tuổi thông qua hoạt động dạy trẻ kể chuyện sáng tạo

Trong chương trình giáo dục mầm non, hoạt động học của trẻ rất phong phú, đa dạng với nhiều hoạt động học khác nhau và được tổ chức với nhiều hình thức khác nhau một cách linh hoạt để giúp trẻ lĩnh hội tri thức, phát triển kỹ năng của hoạt động học theo nội dung của chủ đề. Trong đó hoạt động làm quen văn học chiếm một vị trí quan trọng trong chương trình chăm sóc giáo dục trẻ. Làm quen văn học nhằm tạo tiền đề cho việc phát triển ngôn ngữ, phát triển trí tưởng tượng, phát triển nhân cách, phát triển thẩm mỹ, phát triển tình cảm và kỹ năng xã hội cho trẻ. Trẻ được tiếp xúc với tác phẩm văn học từ rất sớm: Từ khi lọt lòng mẹ trẻ đã được nghe những câu ru thấm đợm tình người. Lớn hơn một chút trẻ được sống trong thế giới kỳ diệu của những câu chuyện thần thoại, truyền thuyết, cổ tích. Thông qua hoạt động cho trẻ làm quen văn học, giúp trẻ có được vốn hiểu biết, vốn từ nhất định và tạo cho trẻ tâm thế vững vàng khi bước vào lớp một.
PHẦN I - ĐẶT VẤN ĐỀ  
1. Lý do chọn đề tài:  
Phát triển ngôn ngữ nhiệm vụ tầm quan trọng đặc biệt của giáo dục mầm  
non. Ngôn ngữ một thứ sản phẩm độc quyền của con người, phương tiện giao  
tiếp trọng yếu nhất của con người. Nhờ có ngôn ngữ mà con người thể hiểu  
được lẫn nhau, cùng nhau hành động những mục đích chung: lao động, đấu  
tranh, xây dựng và phát triển hội. Không có ngôn ngữ, không thể giao tiếp được,  
thậm chí không thể tồn tại được, nhất đứa trẻ, một sinh thể yếu ớt rất cần đến sự  
chăm sóc, bảo vệ của người lớn. Ngôn ngữ làm cho đứa trẻ trở thành một thành  
viên của hội loài người. Ngôn ngữ một công cụ hữu hiệu để trẻ thể bày tỏ  
những nguyện vọng của mình từ khi còn rất nhỏ để người lớn thể chăm sóc, điều  
khiển, giáo dục trẻ.  
Ngôn ngữ là công cụ để trẻ giao tiếp, học tập và vui chơi. Ngôn ngữ giữ vai trò  
quyết định sự phát triển của tâm lý trẻ em. Bên cạnh đó ngôn ngữ còn là phương  
tiện để giáo dục trẻ một cách toàn diện bao gồm sự phát triển về đạo đức, tư duy  
nhận thức và các chuẩn mực hành vi văn hóa. Ngôn ngữ được tích hợp trong tất cả  
các loại hình hoạt động giáo dục, ở mọi lúc, mọi nơi. Như vậy ngôn ngữ cần cho  
tất cả các hoạt động ngược lại, mọi hoạt động tạo cơ hội cho ngôn ngữ trẻ phát  
triển. Thông qua ngôn ngữ, lời nói của người lớn, trẻ làm quen với sự vật, hiện  
tượng những đặc điểm, tính chất, công dụng của sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã  
hội. Ngôn ngữ giúp trẻ mở rộng hiểu biết về thế giới xung quanh. Đối với trẻ mầm  
non nói chung và trẻ 3 – 4 tuổi nói riêng, trẻ rất nhậy cảm với nghệ thuật ngôn từ.  
Âm điệu, hình tượng của các bài hát ru, đồng dao, ca dao, dân ca sớm đi vào tâm  
hồn tuổi thơ. Những câu chuyện cổ tích, thần thoại đặc biệt hấp dẫn trẻ. Chính vì  
vậy cho trẻ tiếp xúc với văn học đặc biệt hoạt động dạy trẻ kể chuyện sáng tạo  
là con đường phát triển ngôn ngữ cho trẻ tốt nhất, hiệu quả nhất. Thông qua việc trẻ  
kể chuyện sáng tạo giúp trẻ phát triển năng lực tư duy, trí tưởng tượng, sáng tạo,  
biết yêu quý cái đẹp, hướng tới cái đẹp. Khi trẻ kể chuyện, ngôn ngữ của trẻ phát  
triển, trẻ phát âm rõ ràng mạch lạc, vốn từ phong phú. Trẻ biết trình bầy ý kiến,  
suy nghĩ, kể về một sự vật hay sự kiện nào đó bằng chính ngôn ngữ của trẻ. Từ  
những lí do trên tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “ Một số kinh nghiệm phát triển  
1/10  
ngôn ngữ cho trẻ 3 – 4 tuổi thông qua hoạt động dạy trẻ kể chuyện sáng tạo”  
nhằm đáp ứng nhu cầu nhận thức của trẻ mầm non hiện nay.  
PHẦN II - GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ  
1. Cơ sở luận  
Trong chương trình giáo dục mầm non, hoạt động học của trẻ rất phong phú, đa  
dạng với nhiều hoạt động học khác nhau và được tổ chức với nhiều hình thức khác  
nhau một cách linh hoạt để giúp trẻ lĩnh hội tri thức, phát triển kỹ năng của hoạt  
động học theo nội dung của chủ đề. Trong đó hoạt động làm quen văn học chiếm  
một vị trí quan trọng trong chương trình chăm sóc giáo dục trẻ. Làm quen văn học  
nhằm tạo tiền đề cho việc phát triển ngôn ngữ, phát triển trí tưởng tượng, phát triển  
nhân cách, phát triển thẩm mỹ, phát triển tình cảm kỹ năng hội cho trẻ. Trẻ  
được tiếp xúc với tác phẩm văn học từ rất sớm: Từ khi lọt lòng mẹ trẻ đã được nghe  
những câu ru thấm đợm tình người. Lớn hơn một chút trẻ được sống trong thế giới  
kỳ diệu của những câu chuyện thần thoại, truyền thuyết, cổ tích. Thông qua hoạt  
động cho trẻ làm quen văn học, giúp trẻ được vốn hiểu biết, vốn từ nhất định và  
tạo cho trẻ tâm thế vững vàng khi bước vào lớp một.  
Trẻ 3 – 4 tuổi sự phát triển ngôn ngữ mạch lạc chịu ảnh hưởng lớn của việc tích  
cực hóa vốn từ, ngôn ngữ của trẻ đã trở nên được mở rộng hơn, có ý trật tự hơn,  
mặc cấu trúc còn chưa hoàn thiện. Khả năng nói trình bày ý nghĩa, hiểu ngôn  
ngữ hoàn cảnh của trẻ cũng đã bắt đầu phát triển. Bằng các hình tượng văn học mở  
ra cho trẻ cuộc sống với hội và thiên nhiên, các mối quan hệ qua lại của con  
người. Những hình tượng đó giúp trẻ nhận thức được tính rõ ràng, chính xác của từ  
ngữ trong tác phẩm văn học. Mỗi bài thơ, câu chuyện đều giới thiệu với các em về  
một góc, một mặt của đời sống: có khi là quá khứ lịch sử hào hùng của dân tộc, có  
khi là sinh hoạt trong gia đình, hoạt động của bác nông dân, chú bộ đội, chú công  
nhân, sinh hoạt ở trường mẫu giáo…Tiếp xúc với tác phẩm, trẻ không chỉ được  
thỏa mãn nhu cầu nhận thức mà còn được mở rộng tầm nhìn, làm giàu có lượng  
thông tin tri thức, làm sâu sắc hơn quá trình quan sát xã hội, môi trường xung  
quanh. Quá trình tiếp xúc với tác phẩm văn học dần dần đã giúp trẻ nắm được rất  
nhiều điều thú vị, bổ ích, có được lượng tri thức và kinh nghiệm sống đáng kể,  
cùng với nó là năng lực trí tuệ nhất định để trẻ thể bước vào trường phổ thông.  
Cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học một trong những hoạt động ở trường  
2/10  
mầm non được trẻ rất yêu thích. Hoạt động làm quen với tác phẩm văn học loại  
hình nghệ thuật, đặc biệt rất gần gũi với trẻ thơ, trẻ đã được sống chan hòa trong  
lời ru “ ầu ơ” đầy yêu thương của bà, của mẹ. Thông qua hoạt động kể chuyện sáng  
tạo trẻ bắt đầu nhận ra trong xã hội những mối quan hệ, những tình cảm gia  
đình, tình bạn, tình cô và trẻ giúp trẻ nhận biết các mối quan hệ giữa hoàn cảnh,  
trạng thái tình huống và nhân vật, giữa lời kể lời thuật, ngôn ngữ nhân vật, âm  
sắc, giọng điệu của tác phẩm chuyện và hành động của các nhân vật trong chuyện.  
Bằng các hình tượng văn học mở ra cho trẻ cuộc sống với hội và thiên nhiên các  
mối quan hệ qua lại của con người. Những hình tượng đó giúp trẻ nhận thức được  
tính rõ ràng, chính xác của từ ngữ trong tác phẩm văn học. Yêu cầu này đòi hỏi trẻ  
phải vốn từ phong phú, các kỹ năng tổng hợp, kỹ năng truyền đạt ý nghĩ của  
mình một cách chính xác, tập trung chú ý và nói biểu cảm. Những kỹ năng này trẻ  
lĩnh hội được trong quả trình nhận thức hệ thống bằng con đường luyện tập  
thường xuyên hàng ngày.  
2. Cơ sở thực tiễn  
2.1 Thực trạng vấn đề  
a. Thuận lợi:  
- Ban Giám Hiu nhà trường luôn quan tâm, giúp đỡ vmi mt, UBND Phường  
luôn to điu kin vcơ svt cht cũng như đồ dùng hc tp cho tr.  
- Lớp học rộng rãi, thoáng mát.  
- Ban giám hiệu luôn quan tâm, thường xuyên tổ chức bồi dưỡng chuyên  
môn và các đợt lên chuyên đề văn học, hội thi đồ dùng đồ chơi cho chị em đồng  
nghiệp học tập nâng cao năng lực và rút kinh nghiệm.  
- Giáo viên trẻ, năng động, sáng tạo, luôn tâm huyết với nghề, có ý thức tự  
bồi dưỡng nâng cao trình độ của mình.  
- Được sự tín nhiệm và tin cậy của các bậc phụ huynh.  
b. Khó khăn:  
- Về cơ sở vật chất: Đồ dùng trực quan còn ít chưa đa dạng phong phú, thẩm  
mỹ chưa cao.  
- Trẻ chưa mạnh dạn, chưa tích cực tham gia hoạt động, dễ bị cuốn hút  
nhưng cũng rất nhanh chán.  
3/10  
- Ngôn ngữ của trẻ còn hạn chế, trẻ phát âm còn chưa rõ ràng, chưa diễn tả  
được ý của mình cho người khác.  
- Khi dạy trẻ kể chuyện sáng tạo giáo viên chưa tích hợp được nhiều môn  
học khác và đầu tư sưu tầm các câu chuyện ngoài chương trình.  
3. Các biện pháp giải quyết  
3.1. Biện pháp 1: Xây dựng nề nếp, thói quen cho trẻ.  
Từ đầu năm học việc xây dựng nề nếp, thói quen cho trẻ việc quan trọng  
đầu tiên. Một số trẻ ở lớp rất hiếu động, hay nói chuyện riêng trong giờ học nên tôi  
xếp những cháu nghịch ngồi cạnh những cháu ngoan, luyện cho trẻ thói quen ngồi  
ngoan, chú ý, hứng thú trong giờ học. Trong giờ hoạt động tôi luôn nhắc trẻ ngồi  
đúng tư thế, biết lắng nghe cô nói từ đó trẻ tập trung vào hoạt động hơn.  
VD : Trong lớp ngoài những trẻ ngoan, biết nghe lời cô thì còn một số bạn nghịch,  
hay nói chuyện trong giờ học tôi thường gọi những trẻ đó nên phát biểu, nếu trẻ  
chưa trả lời được tôi động viên khuyến khích trẻ, trẻ trả lời chưa đúng thì tôi vẫn  
động viên, khuyến khích tuyên dương trước lớp. Trẻ thấy thích thú khi được khen  
sẽ ngoan hơn, chú ý, tập trung hơn trong giờ học.  
3.2. Biện pháp 2: Tạo môi trường hoạt động cho trẻ kể chuyện sáng tạo.  
Tạo môi trường cho trẻ hoạt động rất cần thiết cho chương trình đổi mới.  
Hiện nay, nếu tạo được môi trường cho trẻ hoạt động tốt thì sẽ kích thích trẻ  
phát triển ngôn ngữ, tham gia vào hoạt động tốt thì sẽ kích thích trẻ phát triển ngôn.  
Tôi đã đi sâu vào môi trường bằng cách đưa hình ảnh nhân vật của câu chuyện nổi  
bật vào góc văn học một số bộ truyện tranh ngoài chương trình để đưa vào giảng  
dạy, vận động phụ huynh đóng góp truyện tranh đưa góc văn học cho trẻ hoạt động  
thường ngày. Những câu chuyện được thể hiện trên các mảng tường trong không  
gian to đã giúp trẻ dễ tri giác, trẻ được thảo luận, bàn bạc về câu chuyện. Từ đó trẻ  
biết vận dụng những kiến thức đó vào kể chuyện sáng tạo một cách dễ dàng. Ngoài  
việc tạo những bức tranh trên mảng tường, những tập truyện tranh chữ to tôi còn đi  
sâu làm một số đồ dùng trực quan cho trẻ hoạt động như: một số con rối dẹt có  
bánh xe, có cử động tay chân và tận dụng những truyện tranh cũ, những sản phẩm  
vẽ của trẻ, cắt dán bồi bìa cứng cho trẻ ghép tranh chuyện sáng tạo hoặc cắt rời các  
con vật cho trẻ tự chọn các con vật đó để kể chuyện sáng tạo theo ý tưởng của mình  
4/10  
giúp trẻ hứng thú tham gia vào hoạt động nhiều ý tưởng hay khi trẻ kể chuyện  
sáng tạo.  
3.3. Biện pháp 3: Dạy trẻ cách sử dụng nhân vật phù hợp với ngôn ngữ  
lời kể sáng tạo.  
Bên cạnh một môi trường hoạt động với đầy đủ các đồ dùng trực quan đa dạng  
phong phú, thu hút sự hứng thú tham gia kể chuyện sáng tạo của trẻ thì chúng ta  
còn phải dạy trẻ cách sử dụng nhân vật phù hợp với ngôn ngữ lời kể sáng tạo. Khi  
dạy trẻ sáng tạo tôi đã chuẩn bị cho trẻ những tập chuyện tranh sưu tầm bằng cách  
đọc kể cho trẻ nghe các giờ đón, giờ trả trẻ giờ chơi hàng ngày. Đây là hình  
thức cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học, cơ sở cho trẻ kiến thức vững  
vàng khi thực hiện kể chuyện sáng tạo. Qua cách làm quen như vậy trẻ biết đánh  
giá, nhận xét về đặc điểm tính cách của các nhân vật thông qua ngôn ngữ nói của  
mình. Bên cạnh đó tôi còn định hướng cho trẻ quan sát các tranh chuyện, cho trẻ  
xem qua đĩa hình các câu chuyện. Đồng thời kết hợp tri giác với đàm thoại giữa cô  
trẻ, giúp trẻ nhận xét đánh giá nội dung truyện một cách chính xác và nói lên ý  
tưởng của mình qua sự nhận thức. Tôi dạy trẻ kể chuyện theo từng nhóm, theo thời  
gian thực hiện một tuần hoặc hai tuần, kết hợp lồng ghép các môn học khác, các trò  
chơi để củng cố khắc sâu kiến thức, mở rộng vốn hiểu biết về thế giới xung  
quanh cho trẻ.  
Sau đây một số cách dạy trẻ sử dụng đồ dùng trực quan:  
- Dạy trẻ sử dụng rối tay: dạy trẻ sử dụng từng con một, kết hợp với lời nói, ngôn  
ngữ biểu cảm cùng với cách diễn rối qua cử động.  
- Dạy trẻ ghép tranh kể chuyện: chọn những tranh mà trẻ thích ghép thành một dải  
câu chuyện sau đó kể từng tranh kết hợp với lời nói chỉ dẫn thông qua các nhân vật  
trong tranh.  
- Dạy trẻ ghép các nhân vật kể chuyện: chọn những nhân vật trẻ thích, sau đó  
ghép các nhân vật với nhau tạo thành một câu chuyện theo ý tưởng của trẻ.  
- Dạy trẻ kể chuyện bằng sa bàn: chọn những nhân vật trẻ thích kết hợp di  
chuyển các nhân vật đó trên sa bàn. Nói đến đâu đưa nhân vật ra đến đó, lời kể đi  
theo nhân vật sử dụng. Từ những việc làm đó không những trẻ sử dụng thành thạo  
đồ dùng trực quan về các con vật mà còn biết vận dụng sử dụng đồ dùng trực quan  
các chủ đề khác. Thông qua các câu chuyện sáng tạo của trẻ, trẻ sử dụng các ngữ  
5/10  
điệu ngắt, nghỉ để truyền đạt thái độ, tình cảm của mình đối với tác phẩm. Trẻ bắt  
trước giọng kể diễn cảm của cô. Từ đó ngôn ngữ của trẻ phát triển mạnh mẽ, vốn  
từ được làm giàu thêm và qua đó trẻ cảm nhận được sự phong phú của ngôn ngữ.  
3.4. Biện pháp 4: Lồng ghép các môn học khác khi dạy trẻ kể chuyện  
sáng tạo.  
Với lời kể diễn cảm, hấp dẫn đã làm rung động người nghe, nhưng biết tích  
hợpcác môn học khác thì còn hay hơn vì nó làm thay đổi không khí, làm thay đổi  
trạng thái khi kể chuyện. Bằng những lời ca, lời đối thoại, những câu đố, những bài  
đồng dao, ca dao hay một số trò chơi xen lẫn. Âm nhạc là môn bổ trợ cho trẻ làm  
quen với tác phẩm văn học, dễ gây ấn tượng cho người xem, vì thế tôi cho trẻ hát  
thuộc các bài hát: “Thương con mèo”, “ Một con vịt”, Đố biết con gì”, “ Trời  
nắng trời mưa” giúp trẻ khi kể chuyện về con vật nào trẻ thể hát về các con vật  
đó phù hợp bới nội dung câu chuyện. Trò chơi là hình thức chuyển tiếp giữa các lần  
kể hay thay cho phần củng cố câu chuyện mà các tiết dạy thường áp dụng. Tôi cho  
trẻ chơi một số trò chơi ở trạng động như trò chơi: Mèo và chim sẻ, gà gáy vịt kêu,  
trời nắng trời mưa, cáo và thỏ…  
Việc tích hợp các môn học khác, các trò chơi vào cho trẻ kể chuyện sáng tạo là  
việc cung cấp thêm một số kiến thức bổ trợ cho câu chuyện sinh động hơn. Ở lúa  
tuổi này tâm lý của trẻ thường mau nhớ chóng quên. Việc tích hợp các môn học  
khác cô giáo phải linh hoạt, lựa chọn nội dung câu chuyện, giúp trẻ tham gia vào  
hoạt động một cách tích cực nhất và ngôn ngữ của trẻ được phát triển mạnh mẽ  
nhất.  
3.5. Biện pháp 5 : Tuyên truyền kết hợp với phụ huynh.  
Như chúng ta đã thấy môi trường tiếp xúc của trẻ chủ yếu là gia đình và nhà  
trường. Chính vì vậy việc kết hợp giữa gia đình và nhà trường một biện pháp  
không thể thiếu. Phụ huynh chính là nhân tố quyết định trong việc tạo nguồn nhiên  
liệu của góc văn học đphát triển ngôn ngữ cho trẻ. Trong cuộc họp phụ huynh đầu  
năm tôi nêu tầm quan trọng của lĩnh vực phát triển ngôn ngữ của trẻ, đặc biệt là  
thông qua hoạt động kể chuyện sáng tạo. Hàng tháng tuyên truyền với phụ huynh  
qua các biểu bảng nêu lên nội dung chủ điểm, vcác câu chuyện sáng tạo của cô và  
trẻ. Qua đó phụ huynh thấy được ngôn ngữ của trphát triển như thế nào và có biện  
pháp kích thích sự phát triển ngôn ngữ cho trẻ tại gia đình.  
6/10  
dụ: Cô trao đổi với phụ huynh về những câu chuyện sáng tạo trẻ đã kể, yêu  
cầu phụ huynh về nhà cho trẻ kể lại câu chuyện đó hoặc kích thích trẻ kể các câu  
chuyện khác. Như vậy ngôn ngữ của trẻ được phát triển một cách phong phú và  
đa dạng.  
Huy động phhuynh đóng góp tiền ủng hộ tạo góc văn học hoặc thu nhặt những  
nguyên vật liệu sẵn có, dễ tìm như báo họa mi, vải vụn, len vụn, các vỏ hộp, mút  
xốp…kết hợp trong và ngoài giờ đón trả trẻ để trao đổi với phụ huynh. Có thể nói  
công tác tuyên truyền với phụ huynh là một việc làm rất quan trọng trong việc  
dạy trẻ kể chuyện sáng tạo để phát triển ngôn ngữ cho trẻ.  
4. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm  
* Về bản thân:  
- Tôi đã thấy mình nâng cao được phong cách nghệ thuật lên lớp, giọng kể được  
trau rồi diễn cảm, thu hút trẻ hứng thú tham gia vào tiết học.  
- Tôi đã rút ra được nhiều kinh nghiệm qua cách dậy trẻ kể chuyện sáng tạo, sưu  
tầm được nhiều truyện tranh, học thuộc nhiều truyện ngoài chương trình.  
- Tạo được môi trường cho trẻ hoạt động tốt ở các góc văn học.  
- Tôi đã tận dụng những nguyên vật liệu sẵn có, dễ tìm để tạo ra nhiều lại rối  
phong phú, đa dạng, sử dụng hiệu quả trong việc dậy trẻ kể chuyện sáng tạo.  
* Về trẻ:  
- Phát âm rõ ràng mạch lạc  
- Hứng thú tham gia hoạt động kể chuyện sáng tạo  
- Biết thể hiện ngôn ngữ hoàn chỉnh ( kể chuyện sáng tạo)  
* Về phụ huynh:  
- Nhận thức được tầm quan trọng của việc dạy trẻ kể cuyện sáng tạo để  
phát triển ngôn ngữ cho trẻ.  
- Phụ huynh phối hợp cùng cô và nhà trường trong việc tạo môi trường học  
tập cho trẻ.  
PHẦN III - KẾT LUẬN KIẾN NGHỊ  
1. Kết luận :  
Giáo dục trẻ ở độ tuổi mầm non là một việc làm khó, giáo dục trẻ chất lượng  
lại càng khó hơn. một giáo viên mầm non, tôi hết sức tâm huyết với công việc  
của mình và cố gắng tìm tòi những giải pháp hữu hiệu để cùng với chị em đồng  
7/10  
nghiệp thực hiện tốt chuyên đề. thể những giải pháp trên chưa phải giải pháp  
hiệu quả tuyệt đối nhưng đối với bản thân tôi nó đã mang lại kết quả tương đối  
tốt, nó làm thay đổi chất lượng hoạt động làm quen văn học trong nhà trường. Chất  
lượng đội ngũ được nâng cao, phụ huynh quan tâm tới việc kết hợp giáo dục con  
trẻ. Trẻ hứng thú, hoạt bát, nhanh nhẹn, giao tiếp mạnh dạn hơn, sử dụng vốn từ có  
biểu cảm, tinh tế hơn...  
2.Bài học kinh nghiệm:  
Từ những biện pháp đã thực hiện tôi đã rút ra một số kinh nghiệm cho bản  
thân như sau:  
- Trong hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3 - 4 tuổi trong trường mầm  
non, thông qua các hoạt động dậy trẻ kể chuyện sáng tạo, một việc làm thiết thực  
nhất trong chương trình đổi mới hiện nay, nó đóng vai trò rất quan trọng cần  
thiết. Hình thành vốn hiểu biết, tính duy hoàn thiện ngôn ngữ, cung cấp vốn từ  
cho trẻ phát huy tính tích cực.  
- Giáo viên cần: Xây dựng môi trường phát triển ngôn ngữ cho trẻ trong  
trường mầm non ở mọi lúc mọi nơi phải lựa chọn các bài câu chuyện phù hợp  
với nội dung chương trình và lứa tuổi trẻ. Tăng cường đổi mới hình thức tổ chức,  
phương pháp giáo dục nhằm phát huy tính tích cực, độc lập tự chủ của trẻ hình  
thành ở trẻ phẩm chất tự tin, khi tham gia hoạt động kể chuyện sáng tạo.  
- Giáo viên phải sự sáng tạo linh hoạt khi dậy trẻ,phải sự kiên trì rèn  
luyện giữa cô và trẻ. Cô luôn phải tâm huyết với nghề từ đó say sưa nghiên cứu tìm  
tòi sáng tạo các biện pháp hay áp dụng vào hoạt động sao cho phù hợp với lứa tuổi  
đảm bảo về yêu cầu về nội dung văn học,… Học hỏi nâng cao trình độ chuyên  
môn về hoạt động phát triển ngôn ngữ kiến thức tổ chức hoạt động cho trẻ kể  
chuyện sáng tạo đạt hiệu quả. như vậy mới phát huy được tính tích cực chủ  
động sáng tạo của trẻ, giúp trẻ phát triển một cách toàn diện.  
3. Kiến nghị  
- Kính mong phòng giáo dục đào tạo , nhà trường tổ chức nhiều hơn nữa  
những buổi chuyên đề về làm quen tác phẩm văn học để giáo viên được tham gia,  
kiến tập học hỏi bồi dưỡng chuyên môn, nâng cao trình độ và rút kinh nghiệm cho  
bản thân.  
8/10  
Trên đây một số kinh nghiệm phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3- 4 tuổi thông qua  
hoạt động kể chuyện sáng tạo của tôi. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến  
của các đồng chí lãnh đạo, các bạn đồng nghiệp bổ sung góp ý cho chuyên đề của  
tôi được hoàn chỉnh nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục trẻ trong nhà trường.  
Tôi Xin chân thành cảm ơn!  
9/10  
docx 9 trang huongnguyen 30/07/2024 490
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số kinh nghiệm phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3 – 4 tuổi thông qua hoạt động dạy trẻ kể chuyện sáng tạo", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_kinh_nghiem_phat_trien_ngon_ngu.docx