SKKN Một số kinh nghiệm đưa âm nhạc dân gian Việt Nam gần gũi hơn với trẻ

Đối với trẻ mầm non, âm nhạc dân gian là những lời hát ru của bà, của mẹ, những câu hát mộc mạc, gần gũi như dòng sữa ngọt ngào của mẹ đã nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ của trẻ. Tình yêu gia đình, quê hương cũng lớn lên từ tiếng hát, lời ru đó. Để nuôi dưỡng cho các bé có tâm hồn dân tộc, giáo dục nghệ thuật cổ truyền đóng vai trò hết sức quan trọng. Những cái hay, cái đẹp, những nét đặc sắc của dân tộc từ đời này qua đời khác đã theo các làn điệu dân ca tác động đến nhiều thế hệ. Những làn điệu dân ca, những sáng tác mang sắc thái dân tộc phải được đến sớm với tuổi thơ, lứa tuổi hồn nhiên trong sáng.
MỤC LỤC  
I. ĐẶT VẤN ĐỀ  
Lý do chọn đề tài:  
Trẻ em ở tuổi mầm non rất nhạy cảm với âm nhạc. Trẻ thích nghe nhạc và  
hứng thú tham gia vào các hoạt động âm nhạc. Mục đích của giáo dục âm nhạc là  
giáo dục tình cảm đạo đức, thẩm mỹ cho trẻ. Giáo dục âm nhạc hình thành cho trẻ  
lòng yêu thiên nhiên, Tổ quốc, tình yêu thương con người; hình thành và phát triển  
ở trẻ những thói quen tốt trong sinh hoạt tập thể như: Tính tổ chức kỷ luật, tự chủ,  
mạnh dạn trước mọi người.  
Âm nhạc truyền thống Việt Nam hay nhạc dân gian, dân ca được ra đời từ  
rất sớm. Người dân Việt Nam đã rất say mê âm nhạc, đối với họ âm nhạc như một  
phần không thể thiếu trong cuộc sống. 54 dân tộc Việt Nam là 54 nền âm nhạc dân  
gian khác nhau, mỗi sắc tộc lại có phương thức biểu hiện, diễn tấu và âm điệu  
riêng. Điệu hát ru Việt khác ru Thái, ru Dao, ru Mường… tộc dùng lời ca tiếng  
hát để đưa trẻ vào giấc ngủ. tộc lại ru con bằng tiếng đàn, tiếng sáo êm ái.  
Nhưng các thể loại âm nhạc này đều bộc lộ tâm tư tình cảm, để tiếp thêm sức  
mạnh, tinh thần làm việc hay là để thoát khỏi trạng thái mệt mỏi trong cuộc sống  
hằng ngày.  
So với các ca khúc thiếu nhi hiện nay thì các làn điệu dân ca khó nghe. Một  
làn điệu dân ca có nhiều nốt luyến, láy, buộc người hát phải nhả chữ mềm mại,  
luyến láy đủ nốt, đảm bảo đủ lượng hơi để hát, cấu trúc tương đối phúc tạp, có  
nhiều nốt hoa mỹ . Vì vậy, bản thân giáo viên cũng ngại khi lựa chọn bài dân ca  
dạy cho trẻ. Mặt khác sự xâm nhập tràn lan của những dòng nhạc hiện đại, nhạc  
giải trí đã khiến cho các em ít quan tâm tới việc lưu giữ các làn điệu dân ca riêng  
của quê hương mình.  
Năm học 2019– 2020 tôi được giao nhiệm vụ phụ trách lớp mẫu giáo lớn 5 -  
6 tuổi hơn nữa chuyên đề năm học mà nhà trường lựa chọn để thực hiện là “Tiếp  
cận học qua chơi đổi mới hình thức tổ chức hoạt động giáo dục lĩnh vực phát  
triển Thẩm mỹ”. Tôi nhận thấy việc đưa âm nhạc dân gian Việt Nam vào các bài  
học sẽ mới ltạo hứng thú cho trẻ. Giúp trẻ thêm hiểu biết và yêu mến âm nhạc  
Việt Nam.  
những lý do trên mà tôi đã quyết định lựa chọn nghiên cứu đề tài: "Một  
số kinh nghiệm đưa âm nhạc dân gian Việt Nam gần gũi hơn với trẻ", với mong  
muốn góp một phần nhỏ bé tri thức của mình trong việc nâng cao hiệu quả cho trẻ  
mẫu giáo 5 tuổi làm quen với âm nhạc.  
1/11  
 
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ  
1. Cơ sở luận:  
Đối với trẻ mầm non, âm nhạc dân gian là những lời hát ru của bà, của mẹ,  
những câu hát mộc mạc, gần gũi như dòng sữa ngọt ngào của mẹ đã nuôi dưỡng  
tâm hồn trẻ thơ của trẻ. Tình yêu gia đình, quê hương cũng lớn lên từ tiếng hát, lời  
ru đó. Để nuôi dưỡng cho các bé có tâm hồn dân tộc, giáo dục nghệ thuật cổ  
truyền đóng vai trò hết sức quan trọng. Những cái hay, cái đẹp, những nét đặc sắc  
của dân tộc từ đời này qua đời khác đã theo các làn điệu dân ca tác động đến nhiều  
thế hệ. Những làn điệu dân ca, những sáng tác mang sắc thái dân tộc phải được  
đến sớm với tuổi thơ, lứa tuổi hồn nhiên trong sáng.  
Trong Chương trình giáo dục mầm non, chủ yếu trẻ tiếp xúc với dân ca qua  
hình thức nghe cô hát chứ trẻ chưa thật sự được hoạt động nhiều với các khúc  
đồng dao, ca dao, dân ca… Tuổi thơ của những thầy cô giáo chúng ta đã trải qua  
đầy êm đềm bên những đêm trăng, những đồng ruộng, cùng nhau đọc vè, đọc đồng  
dao, hát dân ca… còn trẻ của ngày nay dường như chỉ thu hẹp trong thế giới riêng  
với những trò chơi hiện đại, gắn với thế giới ảo trên máy tính.  
Ngay từ đầu năm học, tôi đã lồng ghép một số bài dân ca vào các bài học, trò  
chơi. Tôi nhận thấy rằng trẻ đặc biệt hứng thú với những bài hát dân ca. Trẻ hát  
say mê và thuộc rất nhanh các bài hát đó. Và khi tôi cho biểu diễn múa minh họa  
trẻ càng say mê và thích thú hơn, trẻ biểu diễn như những diễn viên chuyên  
nghiệp.  
2. Thực trạng:  
2.1. Thuận lợi:  
- Nhà trường mới xây dựng từ năm 2015 với sở vật chất khang trang,  
hiện đại giúp cho các lớp điều kiện tốt phục vụ công tác chăm sóc, giáo dục trẻ.  
- Lớp luôn luôn được sự quan tâm của Ban Giám hiệu nhà trường, các bậc  
phụ huynh nhiệt tình ủng hộ các phong trào, các hoạt động của lớp.  
- Giáo viên có trình độ chuyên môn trên chuẩn, có kinh nghiệm giảng dạy,  
yêu nghề, mến trẻ, nhiệt tình, năng động.  
- Ban Giám hiệu kế hoạch chỉ đạo sát sao việc thực hiện chuyên đề phát  
triển thẩm mỹ, từ đó giáo viên đứng lớp rất thuận tiện cho việc thực hiện kế hoạch.  
- Lớp được trang bị đầy đủ các trang thiết bị hiện đại cũng như các học liệu  
cần thiết đảm bảo thuận lợi cho việc dạy học.  
- Giáo viên có khả năng âm nhạc tốt, rất yêu thích âm nhạc dân gian Việt  
Nam và đã tìm hiểu sâu về nhiều bài hát, điệu múa dân gian thú vị, đặc sắc, phù  
hợp với trẻ.  
2/11  
       
2.2. Khó khăn:  
- Trẻ chưa hiểu biết về âm nhạc dân gian Việt Nam.  
- Trong lớp còn một số trẻ rụt rè, nhút nhát, thiếu tự tin và không thích tham  
gia vào các hoạt động tập thể.  
- Một số trẻ rất hiếu động, nghịch và chưa tập trung chú ý.  
- Hầu hết các bậc phụ huynh là bố, mẹ còn ít tuổi nên họ thường quá bận rộn  
với công việc của mình, thời gian dành cho trẻ ít vì vậy trẻ hay tiếp xúc với điện  
thoại, máy tính và ít khi được cảm thụ âm nhạc, các làn điệu dân ca.  
- Một số phụ huynh nôn nóng trong việc học văn hóa của con em mình nên  
không thích cho con tham gia hoạt động văn nghệ ở lớp, ở trường.  
2.3. Kết quả khảo sát đầu năm  
Lớp có 43 trẻ. Số trnam: 27 trẻ, chiếm 62%. Số trẻ nữ: 16 trẻ, chiếm 38%.  
Mức độ đạt được  
Số trẻ  
KS  
43  
TT  
Khả năng  
Đạt  
27%  
76%  
58%  
86%  
Chưa đạt  
73%  
1 Trẻ hiểu biết về âm nhạc truyền thống.  
2 Khả năng cảm thụ âm nhạc.  
3 Kỹ năng múa, hát.  
43  
24%  
43  
42%  
4 Yêu thích bài hát, điệu múa dân gian.  
43  
14%  
Dựa trên những số liệu điều tra trên, để thực hiện tốt đề tài này tôi áp dụng  
một số biện pháp sau:  
3. Các biện pháp tiến hành:  
3.1. La chn, sưu tm bài hát, âm nhc dân gian phù hp vi đặc đim la tui ca  
tr, phù hp vi các chủ đề:  
Kho tàng âm nhc dân gian Vit Nam vô cùng phong phú và đa dng nhưng không  
phi giai điu, bài hát nào cũng phù hp vi trnh.  
Chúng ta biết rng, so vi người ln, thanh qun ca trmu giáo chbng mt  
na, các dây thanh âm dài bng mt phn ba, lưỡi hình thành chưa hoàn chnh. Trchưa  
điu khin được hcơ thanh qun và hhhp ca mình, lượng hơi cũng ngn hơn so vi  
yêu cu ca các làn điu dân ca. Vì vy, cô giáo phi chn la bài hát phù hp vi tr, khi  
trhát được trscàng thích thú hơn.  
VD: Bài “ Gà gáy” – dân ca Cng( Lai Châu) có cu trúc đơn gin, phách - nhp rõ  
ràng, cu to chyếu bng các nt móc đơn, đen, trng, ít chluyến, láy, có ít nt hoa m,  
có nhiu nhp ngh.  
3/11  
       
Vì tính cht vùng min, tôi ưu tiên các làn điu dân ca Đồng bng Bc B: Cây trúc  
xinh, Inh lả ơi, cl, trng cơm... Và sau đó la chn các bài dân ca vùng min khác để  
hát cho trnghe.  
Vic chn lc các bài dân ca cũng phi phù hp vi chương trình giáo dc mm  
non hin nay. VD:  
Chủ đề nghnghip: Tp tm vông, Rnh rnh ràng ràng, Đi cy, Ngày mùa vui...  
Chủ đề động vt: Lý chim sáo, Lý con kh, Câu ếch, Gà gáy le te, Lý con sáo gò công....  
Chủ đề thc vt: Bu và bí, Lý cây bông, Lý cây xanh, Úp lá khoai, Hoa trong vườn.,...  
Chủ đề gia đình: Cái bng, Bà còng đi ch, Ru em., Lý chiu chiu...  
Chủ đề quê hương: Màu xanh quê hương, Quê hương tươi đẹp...  
3.2, Biện pháp tạo môi trường học tập đồ dùng, dụng cụ:  
Góc âm nhạc nơi trẻ điều kiện để thể hiện khả năng âm nhạc của mình.  
Trẻ thể làm quen, ôn luyện, củng cố vận dụng phát triển những kỹ năng âm  
nhạc. Tôi luôn chú ý tận dụng diện tích phòng học, góc âm nhạc một cách phù hợp  
bố trí, sắp xếp các dụng cụ, đồ dùng âm nhạc để tạo môi trường học gần gũi,  
thoải mái cho trẻ.  
Bên cạnh các nhạc cụ hiện đại như đàn organ, đàn ghita..., tôi cho trẻ làm  
quen với nhạc cụ dân tộc. Trẻ vừa cảm thấy mới lạ, vừa có thêm hiểu biết về văn  
hóa âm nhạc của dân tộc. (minh họa ảnh 1,2)  
Đó một số nhạc cụ được sáng tạo mang nét đặc trưng của mỗi dân tộc.  
Mỗi loại nhạc cụ sẽ phát ra âm thanh khác nhau. Trẻ được tiếp xúc với các nhạc  
cụ, nghe âm thanh sẽ giúp trẻ rèn kỹ năng nghe, phân biệt âm thanh.  
Trang phục cũng góp phần không nhỏ giúp trẻ gần gũi hơn với các làn điệu  
dân ca. Mỗi dân tộc sẽ bộ trang phục khác nhau. Khi tham gia biểu diễn bài “  
Xòe hoa”, tôi sẽ cũng trẻ diện những bộ trang phục truyền thống của người Thái  
trang trí nhiều họa tiết hoa văn với hàng khuy bạc lấp lánh. Hay vận động múa bài  
“ Ru em” dân tộc Xê-đăng, tôi cho trẻ mặc những bộ trang phục làm từ thổ cẩm  
với nhiều hoa văn trang trí xung quanh. “ Trống cơm” thì diện áo yếm váy đụp...  
4/11  
 
trẻ sẽ được hóa thân vào những nhân vật trong các bài dân ca. Điều đó giúp trẻ  
khắc sâu những hình tượng về con người của từng vùng miền trên đất nước Việt  
Nam, để qua đó trẻ thêm yêu dân ca, thích hát múa dân ca.  
3.3, Biện pháp tổ chức trên tiết học:  
Để dạy được một tiết hát – múa dân ca hiệu quả, trước tiên giáo viên phải  
nắm vững phương pháp tổ chức hoạt động âm nhạc cho trẻ ở trường mầm non:  
phương pháp trực quan thính giác, phương pháp đàm thoại, phương pháp thực  
hành nghệ thuật, phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan.  
Từ những luận điểm chủ yếu của Mac-Lenin về nhận thức cho thấy: Trẻ nhận  
thức thế giới xung quanh qua âm nhạc có hình ảnh cảm xúc. Vì vậy, khi dạy trẻ  
một bài dân ca của dân tộc nào đó, tôi sẽ dùng bản đồ để giới thiệu vị trí địa lí,  
dùng tranh ảnh để giới thiệu về sinh hoạt văn hoá, sinh hoạt cộng đồng, về phong  
cảnh vùng miền đó. Cần giới thiệu về xuất xứ và nét đặc trưng của bài dân ca.  
VD: “ Xòe hoa”- dân ca Thái.  
Tôi cho trẻ xem bản đồ giới thiệu cho trẻ, dân tộc Thái chủ yếu ở Tây Bắc  
Việt Nam, họ ở nhà sàn, tự dệt vải may trang phục, múa sạp một vũ điệu dân  
gian truyền thống. (ảnh minh họa 3,4,5)  
Từ đó giúp trẻ có thêm hiểu biết về nơi sinh ra bài dân ca, cách họ sử dụng bài  
dân ca trong cuộc sống.  
Tiếp đó, tôi giới thiệu tên bài hát và hát cho trẻ nghe. Ở tuổi này, trẻ thích nghe  
chăm chú nghe cô giáo hát dân ca. Như vậy đã sự phát triển về trí nhớ các  
giai điệu bài hát. Vai trò của giáo viên rất quan trọng, khi cô hát cho trẻ nghe, cô  
cần phải hát đúng chất giọng, ca từ, diễn cảm đúng nội dung bài hát. Có như thế  
mới truyền tải được hết tác dụng của dân ca đối với sự phát triển của trẻ. phải  
thể hiện được giai điệu nhịp nhàng, vui tươi trong bài “ Xòe hoa” dân ca Thái hay  
thể hiện tình cảm gia đình trong “ Bèo dạt mây trôi” dân ca Bắc bộ.  
Để hát được một bài hát, trước tiện cần luyện giọng cho trẻ. Với các bài hát  
thiếu nhi hiện nay, tôi thường sử dụng gam trưởng hoặc gam thứ của âm nhạc  
phương Tây cho học sinh khởi động giọng, dụ:  
Mỗi bài dân ca của Việt Nam có màu sắc riêng, và thường viết bằng thang âm  
ngũ cung, như Pha Son La Đô Rê (Quê hương tươi đẹp), Đô Rê Mi Son La (Lí cây  
xanh)…, vì thế việc sử dụng gam trưởng, thứ của phương Tây để luyện giọng là  
không phù hợp. Tôi thường sử dụng chính thang âm của từng bài làm mẫu âm khởi  
5/11  
 
động. Thậm chí có bài tôi đã dùng giai điệu của bài hát làm mẫu để học sinh khởi  
động giọng, dụ bài Chim sáo tôi đã sử dụng câu hát cuối mẫu âm:  
Khi dạy trẻ hát, việc chia các câu hát trong bài dân ca phải hết sức linh hoạt, có  
thể có câu hát dài, có câu hát ngắn vì bài dân ca Việt Nam thường được xây dựng  
từ thơ lục bát, lời ca đệm thêm bằng những hư từ nên cấu trúc không cân đối. Ví  
dụ bài “Xoè hoa” được chia thành 4 câu hát với độ dài ngắn không đều nhau:  
Bùng bong bính boong ngân nga tiếng cồng vang vang.  
Nghe tiếng chiêng reo vui rộn ràng.  
Nghe tiếng khèn tiếng sáo vang lừng.  
Tay nắm tay ta cùng xoè hoa.  
Hoặc bài “Cò lả” cũng được chia thành 4 câu hát dài ngắn khác nhau.  
Con cò cò bay lả lả bay la,  
Bay từ từ cửa phủ, bay ra ra cánh đồng.  
Tình tính tang tang tính tình ơi bạn rằng ơi bạn ơi,  
Rằng biết biết hay chăng, rằng nhớ nhớ hay chăng.  
Đến những chỗ khó, tiếng luyến láy, ngân nghỉ, cũng như thể hiện được sắc thái  
của bài dân ca tôi sẽ hát tăng cường hát mẫu để giúp trẻ hát đúng.  
Tôi giải thích cho trẻ hiểu về những từ khó trong bài dân ca, ví dụ: Xoè hoa là  
múa hoa, Lí cây xanh là khúc hát ngắn về cây xanh, Bắc kim thang là lời bài đồng  
dao (bản thân từ này không có nghĩa gì), dĩa bánh bò (trong bài Lí dĩa bánh bò)  
nghĩa đĩa bánh bò, chẻ tre đan xịa (trong bài Hò ba lí) nghĩa chẻ tre để đan cái  
nong, nia, Cò lả diễn tả cánh cò bay chập chờn (con cò cũng là hình tượng người  
nông dân Việt Nam). Từ đó sẽ giúp cho vốn từ của trẻ được tăng lên rõ ràng, trẻ  
biết thêm các từ của vùng miền khác nhau, trẻ sẽ dễ dàng làm quen với văn học và  
chữ viết.  
Khi trẻ đã hát được một bài dân ca, tôi cho trẻ hát giao lưu với nhau, hát theo cá  
nhân, nhóm, hát đối đáp...  
Tôi còn dạy trẻ vận động theo bài dân ca để tạo hứng thú cho trẻ hơn. Lựa chọn  
các động tác múa dân gian cơ bản, đạo cụ múa áp dụng vào bài hát. Nhờ sự minh  
họa những giai điệu này giúp cho bàn tay, tay, chân, lưng, đầu, vai và toàn thân  
của trẻ chuyển động càng chính xác và nhịp nhàng hơn. VD: Bài “Trống cơm” sử  
dụng động tác mõ mời, chấm chân... “ Xòe hoa” thì cầm khăn nhảy sạp, Bắc  
kim thang” thì sử dụng trống, mõ, phách...  
6/11  
3.4, Biện pháp tích hợp các môn học khác:  
Hoạt động học:  
Với các môn học khác, việc lồng ghép các làn điệu dân ca sẽ giúp trẻ hứng  
thú hơn. Tôi sẽ chọn những bài hát dân ca phù hợp với nội dung bài dạy.  
dụ:  
+ Trong tiết làm quen văn học:  
o Kể “Quả bầu tiên”, tôi có thể dẫn dắt bằng cách cho trẻ hát dân ca “Bầu và  
bí”. Tôi hướng trẻ đến tình đoàn kết dân tộc thương yêu đồng loại, tình cảm  
thương yêu với loài vật xung quanh, giáo dục trẻ nhân cách tốt đẹp, khi biết  
yêu thương giúp đỡ người khác.  
o Khi cho trẻ đóng vai các nhân vật trong câu chuyện Khỉ con biết vâng lời”,  
trẻ thể hát một đoạn trong làn điệu dân ca “ Lý con khỉ”. Với giai điệu  
vui tươi, bài dân ca sẽ làm cho vai diễn sống động, vui vẻ hơn.  
+ Trong làm quen với toán: Tôi cho trẻ hát “Lý cây bông” trẻ sẽ đếm số  
lượng, màu sắc cho các loại hoa trong bài dân ca. “Rềnh rềnh ràng ràng” để tính  
xem số chân của một bạn hay nhiều bạn...  
+ Trong làm quen MTXQ:  
o Ở chủ đề gia đình, tôi có thể gợi mở bằng cách hát ru: Ru em (Dân ca Xê  
Đăng) hoặc Ru con (Dân ca Nam bộ) nói cho trẻ biết về tình cảm thiết tha  
của người mẹ, người chị qua lời ru ngọt ngào của các bài dân ca đó.  
o Những bài dân ca: Quê hương tươi đẹp, Màu xanh quê hương... sẽ được sử  
dụng khi tìm hiểu về quê hương, đất nước.  
o Khi tìm hiểu về mưa, tôi cho trẻ hát “ Mưa rơi” hay tìm hiểu về những con  
vật sống trong gia đình thì có bài dân ca “ gà gáy”...  
Hoạt động khác:  
+ Trong giờ tập thể dục buổi sáng, tôi có thể mở cho trẻ nghe “Gà gáy le te”  
(Dân ca Cống Khao) tạo cho trẻ không khí của một ngày mới sinh động.  
+ Sử dụng trong hoạt động góc:  
o Góc âm nhạc tôi cho trẻ múa, hát các làn điệu dân ca theo chủ đề, sử dụng  
các nhạc cụ dân tộc, trẻ thể vừa nghe nhạc vừa tự làm, trang trí các nhạc  
cụ dân tộc theo ý thích của mình. (minh họa ảnh 6, 7)  
o Trẻ hóa thân là người đi chợ, vừa đi vừa hát “ Bà còng đi chợ” ở góc nấu  
ăn.  
o góc tạo hình, tôi cho trẻ tô màu theo các màu hoa trong bài “ Lý cây  
bông”...  
+ Hoạt động ngoài trời: Tôi tổ chức trẻ chơi trò chơi dân gian tập tầm vông, qua  
đó giới thiệu trbài dân ca “Tập tầm vông”...  
7/11  
 
3.5, Biện pháp dạy trẻ trong giờ học, mọi lúc mọi nơi:  
Trong giờ đón, trả trẻ, thay vì cho trẻ chơi những đồ chơi vô chi vô giác, tôi  
sẽ cho trẻ chơi những trò chơi ngắn mang tính dân gian, kết hợp với các làn điệu  
dân ca như: Tập tầm vông, Rềnh rềnh ràng ràng, Chi chi chành chành...  
Ngoài giờ học trên lớp, mỗi cuối tuần tôi sẽ tổ chức giao lưu văn nghệ giưa  
các bạn trong lớp. Hay giao lưu văn nghệ với các bạn lớp khác, hoạt động giao lưu  
góp phần rèn luyện cho trẻ tính mạnh rạn tự tin, phần nào đó phát huy được kỹ  
năng biểu diễn, yêu thích các hoạt động văn hóa văn nghệ, được niềm vui niềm  
hạnh phúc trong các hoạt động mà các con được tham gia.  
Tham gia giao lưu văn nghệ hội làng, các chương trình văn nghệ nhà trường  
và xã hôi tổ chức,các con sẽ thấy thích thú khi được đứng trên sân khấu, được  
người nhà, bạn cổ vũ. Tôi sẽ ưu tiên lưa chon những bài hát, bài múa dân gian  
có tính nghệ thuật cao hơn: Úp lá khoai, khúc đồng dao, bèo dạt mây trôi, inh lả  
ơi, hoa thơm bướm lượn, đi cấy...  
Hơn thế nữa từ những nội dung, hình ảnh đẹp về việc giao lưu văn nghệ các  
con có được sự quan tâm sâu sắc của cộng đồng từ đó các con có điều kiện tốt hơn  
về mọi mặt.  
3.6, Biện pháp kết hợp với gia đình:  
Tôi truyên truyền cho phụ huynh về giáo dục, bảo tồn nét đệp truyền thống  
của dân tộc qua các bài dân ca, cùng tôi sưu tầm, tìm hiểu các lần điệu dân ca. Từ  
đó, phụ huynh có thể phối hợp giúp cô giáo dạy hát dân ca cho trẻ ở nhà hoặc hát  
cho trẻ nghe vào mỗi buổi tối trước khi đi ngủ. Trẻ cũng thể hát ru cho em bé  
ngủ.  
Phụ huynh có thể cho trẻ nghe bài hát, bài múa trên điện thoại, ipad, tivi  
thay bằng cho trẻ xem hoạt hình, chơi điện tử. Đến lớp sẽ tiếp tục dạy trẻ múa  
hát để biểu diễn.  
Khi nhà trường tổ chức hay tham gia một chương trình văn nghệ, tôi sẽ nhờ  
phụ huynh cũng chuẩn bị trang phục, dạo cụ cho trẻ. Đây cũng dịp phụ huynh  
cùng nhà trường thực hiện công tác xã hội hóa giáo dục, thể hiện sự quan tâm đối  
với trẻ, mang đến cho trẻ sự hồn nhiên của tuổi thơ, trong sáng đầy tiếng cười.  
III. KẾT QUẢ SÁNG KIẾN:  
Trong năm học 2019 - 2020 là năm thực hiện chuyên đề Tiếp cận học qua  
chơi đổi mới hình thức tổ chức hoạt động giáo dục lĩnh vực phát triển Thẩm  
mỹ”, từ những sáng kiến trên, tôi đã xây dựng và lên tiết âm nhạc thành công. Với  
8/11  
     
chủ đề: Quê hương Đất nước – Con người, tôi dạy trẻ múa các động tác Tây  
Nguyên áp dụng vào bài hát. Trẻ được tìm hiểu về phong tục, tập quán của người  
dân Tây Nguyên, được thưởng thức âm thanh thánh thót, vang vọng núi rừng qua  
màn độc tấu đàn T’Rưng. Trẻ thật hào hứng và thích thú khi tham gia các hoạt  
động (minh họa ảnh 9,10)  
Tiết dạy âm nhạc của tôi được nhà trường đánh giá là 1 trong những tiết dạy  
sáng tạo, được chia sẻ chuyên môn với các đồng nghiệp trong trường. Tại buổi  
giao lưu, trong không khí chân tình, thân mật, hợp tác, giúp nhau cùng phát triển,  
các giáo viên đã rút kinh nghiệm sau tiết dự giờ. Giáo viên đã tham gia góp ý, trao  
đổi, thảo luận theo hướng tích cực nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy. Qua thảo  
luận, các giáo viên đã thống nhất một số vấn đề còn vướng mắc, khó khăn trong  
giảng dạy như: xây dựng nội dung dạy học phù hợp với từng đối tượng trẻ, sử  
dụng linh hoạt phương pháp, hình thức tổ chức giờ học, đẩy mạnh ứng dụng công  
nghệ thông tin trong hoạt động giảng dạy.. Đó thực sự những trao đổi, góp ý rất  
bổ ích về chuyên môn cho cán bộ, giáo viên tham gia buổi giao lưu. Buổi sinh hoạt  
chuyên môn diễn ra trong một thời gian không dài nhưng đã tạo ra những hiệu quả  
mạnh mẽ và rõ nét với sự lan tỏa sâu rộng.  
1. Đối với giáo viên:  
- Tất cả giáo viên trong trường nói chung và bản thân tôi nói riêng đều nhận  
thức được về tầm quan trọng của hoạt động âm nhạc. Đặc biệt đã nắm vững nội  
dung, phương pháp, hình thức đổi mới của hoạt động này.  
- Hoạt động âm nhạc bây giờ một niềm say mê sáng tạo của giáo viên, thể  
hiện trí tuệ, năng lực của mình qua một tiết dạy sinh động, hấp dẫn trẻ.  
Qua những năm giảng dạy trẻ lúc mới bước vào giảng dạy phương pháp tôi  
chưa linh hoạt sáng tạo nên kết quả của tiết học chưa cao. Từ khi sử dụng các biện  
pháp trên nên nghệ thuật lên lớp của tôi đã một cách sáng tạo, linh hoạt, bản  
thân không ngừng phấn đấu học hỏi ở bạn đồng nghiệp, qua các phương tiện  
thông tin đại chúng .... bên cạnh những thành tích trên tôi còn phải cố gắng nhiều  
hơn nữa, trau dồi kinh nghiệm chuyên môn để phát huy và đạt được kết quả cao  
hơn nữa trong công tác chăm sóc và giáo dục trẻ.  
2. Đối với trẻ:  
- 100% trẻ được tìm hiểu về âm nhạc dân gian Việt Nam.  
- Trẻ dần hoạt bát và nhanh nhẹn hơn so với đầu năm. Trẻ nhận biết được  
đất nước Việt Nam có rất nhiều vùng miền, nhiều dân tộc, phong tục.  
- Qua việc thực hiện các biện pháp mới sáng tạo trong việc dạy môn "Âm  
nhạc" tôi đã thu được kết qusau:  
* Kết quả của trẻ theo đánh giá của lớp:  
9/11  

Tải về để xem bản đầy đủ

doc 16 trang huongnguyen 15/06/2024 790
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số kinh nghiệm đưa âm nhạc dân gian Việt Nam gần gũi hơn với trẻ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docskkn_mot_so_kinh_nghiem_dua_am_nhac_dan_gian_viet_nam_gan_gu.doc